Sau Khi Mất Đất, Việt-Nam Mất Tới Biển

HƠN MỘT NỬA VỊNH BẮC VIỆT THUỘC TRUNG CỘNG

Nhóm Lướt Sóng

Lời Giới-thiệu:

“Hơn một nửa Vịnh Bắc-Việt đã thuộc về Trung-Cộng” không phải là một tin giả. Đó là tin-tức chính-thức loan đi của Đảng Cộng-Sản Việt-Nam trên Internet. Sau khi đã dâng đất biên-giới trên bộ, bọn Cộng-Sản lại hiến thêm vùng biển quê-hương Tổ-Quốc cho quan thầy. Mục-đích của chúng là cúi xin quan thầy thương xót để được tiếp-tục đóng vai trò một chính-quyền bù-nhìn. Trong khi kẻ thù truyền-kiếp của dân-tộc còn ở ngoài biên chưa thèm động binh mà mới chỉ “ho” nhẹ một tiếng, tôi-tớ của chúng tại ngay Hà-Nội đã vội vàng hết cắt đất, đến cắt biển cầu thân.

... Sự thực, Biển Việt-Nam đã bị mất nhiều lắm, phần bị cắt với tài-nguyên và hải-sản có thể lên tới hai phần ba hay ba phần tư của Vịnh Biển mà Ông Cha để lại suốt mấy ngàn năm qua. Bài viết này do Ban Biên Tập Lướt Sóng nghiên-cứu, sưu-tầm, tuy không nặng phần pháp-lý, nhưng rất chính-xác và có chút tham-vọng nêu ra một số tài-liệu sơ-khởi để tìm hiểu xem:

- Gia-tài bọn Cộng-Sản “cống nạp” Quan Thầy ngày nay to lớn đến thế nào?
- Phần “quốc-phá” về lâu về dài lên sẽ di-hại tới mức-độ bao nhiêu cho dân-tộc và con cháu những thế-hệ sau này?

Đồng-bào ơi! Đã Quốc-Phá tất Gia-Vong. Hãy cùng đứng lên thanh-toán ngay kẻ nội-thù cho rảnh tay trước khi chống giặc ngoại-xâm. Ngay trong lúc này, chúng ta hãy ghi lại kỹ-lưỡng tên tuổi những tên bán nước để dân ta muôn đời nguyền rủa. Bọn Cộng-nô hèn hạ này nếu không sớm bị lật đổ, chúng sẽ tiếp-tục cắt đất và dần dần nhượng cho quan thầy của chúng cho đến hết trọn Biển Đông.

Ban Biên-tập LƯỚT SÓNG


Lần đầu tiên Cộng-Sản phải Tiết-lộ vì bị bắt buộc

Sau một thời-gian dài im-lặng, Đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã phổ-biến tin-tức liên-hệ đến Hiệp định phân định Vịnh Bắc-Bộ và Hiệp định Hợp tác nghề cá giữa Việt Nam - Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ qua hai bài viết:

- Bài của Lê Công Phụng, Thứ trưởng Ngoại giao (CSVN)
(http://www.cpv.org.vn/tccs/022001/6_lecongphung.htm)

- Bài tóm tắt sự kiện, Tạp Chí Tư Tưởng Văn Hóa số 3, 2001
(http://www.cpv.org.vn/anpham/tutuong/032001/ 13_kyhiepdinh.htm)

Từ trước đến nay, dân-chúng Việt-Nam (VN) chưa khi nào được Đảng Cộng-Sản và Chính-quyền Hà-Nội cung cấp đầy đủ tin tức hay chi tiết liên quan đến tình-trạng biên-giới trên bộ cũng như ngoài biển với Trung-Cộng (TC). Lần này, nhân dịp mừng Đại-hội lần IX (1), Đảng Cộng-Sản VN cho công-bố chính-thức chuyện này trên Website mới của họ vào ngày 10/04/2001. Phải có những lý-do sâu xa bắt buộc họ phải làm như vậy. Đáng kể nhất là áp-lực mạnh mẽ từ phía đảng Cộng-sản Trung-Hoa. Có lẽ đã đến lúc Trung-Cộng ra oai, muốn bạch-hóa những thành-tích lấn-chiếm của họ. Tội ác cắt biển cầu thân của giặc Cộng rất rõ-ràng.

- Xem dâng đất và biển (hình 1)
- Xem dâng đất và biển (hình 2)
- Xem dâng đất và biển (hình 3)

Trung-Cộng lại đang tranh-cãi chủ-quyền hải-phận và không-phận với Hoa-Kỳ. Trong khi phi-cơ Hải-Quân Mỹ bay thám-thính Biển Đông, gặp phi-cơ chiến-đấu Trung-Cộng ngăn cản, đụng nhau rồi phải đáp khẩn-cấp xuống Hải-Nam. Việc ký-kết Việt-Hoa về Hải-phận nhiều ít cũng tăng-cường thế mạnh của Trung-Cộng, đặc-biệt khi Đế-quốc Đỏ này đang hung-hăng đòi chủ-quyền tuyệt-đối tới 80% Biển Đông và diễu-võ dương-oai với các Quốc-Gia Đông-Nam-Á, đồng-thời đe-dọa xâm-lăng Đài-Loan.

Trong khi chính-quyền Hà-Nội khoa-trương nền móng độc-lập tự-trị, người ta lại thấy chúng xun xoe hầu tiếp Hồ Cẩm Đào, Phó Chủ-tịch Trung-Cộng sang dự đại-hội Đảng CSVN kỳ IX. Chưa bao giờ trong lịch-sử lại có chuyện phiên-thần nhục-nhã “luồn cúi” tương-tự. Cho đến Việt-gian Lê-Chiêu-Thống cũng chỉ cõng được con rắn “vĩ-đại” tới mức một quan-chức Tàu cấp Tổng-Đốc hàng tỉnh (Lưỡng-Quảng) mà thôi. Ngày nay, “Á Hoàng-Đế” Hồ-Cẩm-Đào đã nghiễm-nhiên ngồi giám-sát chuyện họp hành quốc-gia trọng-sự của “An-Nam” trong suốt mấy tuần-lễ tại Hà-Nội. Qua các hình-ảnh công-bố, sau khi được Chủ-tịch Nước là Trần-Đức-Lương tiếp-rước chào-đón long-trọng, người ta thấy họ Hồ luôn luôn kèm sát luôn bên cạnh Chủ-tịch Đảng CSVN là Lê-Khả-Phiêu. Vì thể-diện quốc-gia và nghi-lễ ngoại-giao, các chính-phủ từng bị chính Hà-Nội gọi là bù-nhìn, chưa khi nào giám công-khai làm những trò trơ-trẽn đến như vậy.

Chúng tôi xin kể tiếp câu chuyện “cõng rắn cắn gà nhà” này bằng cách lược-duyệt những diễn-tiến thương-thuyết hải-biên hai nước. Đặc-biệt, Lướt-Sóng trình-bày một số bản đồ minh-chứng mà CSVN đã ém nhẹm vì sợ lộ-liễu quá. Hành động cắt đất cắt biển cầu thân của giặc Cộng rất rõ-ràng.

CHỦ QUYỀN VỊNH BẮC VIỆT TRONG CỔ THỜI

Vịnh Bắc-Việt trong cổ-thời hoàn toàn thuộc chủ-quyền Việt-Nam. Ngoài Sử Việt-Nam, Sử Trung-Hoa cũng ghi-nhận vùng biển này là Biển Giao-Chỉ hay Giao-Chỉ-Dương. Không những tên biển đuợc xác-nhận rõ-ràng, mà theo nhà Địa-lý-Học Edward H. H, Schafer, ngay cả tên đảo Hải-Nam - đảo tiếp-giáp - cũng một thời có nghiã là tỉnh của Việt-Nam. Ông viết trong cuốn sách tựa đề Châu-Nhai “Shore Of Pearls” (Berkley & London 1970, trang 9) như sau: “In Han period, when it (Hainan) begins to appear in Chinese texts, “South Of the Sea” referred to the Vietnamese provinces, as we would style them...” . Về hải-thương, Schafer ghi-nhận hầu hết sản-phẩm đuợc đua tới bằng đuờng biển. Thuyền từ phía Tây-Nam là Đại-Việt vượt ngang Giao-Chỉ-Dương để đến đây. “Southwest of Hainan is that great sea called “Chiao-Chih Ocean” (Shore Of Pearls, trang78).

Cho đến thế-kỷ thứ 11, người Trung-Hoa vẫn còn rất sợ-hãi Vịnh Biển này không giám mạo-hiểm hải-hành vì sóng gió khủng-khiếp. Ngay từ thời sinh-tiền, thi-hào Đỗ-Phủ đã có lần đề-cập đến câu truyện này. Tên “kình ba” (whale waves) thường ghi đậm nơi tâm-trí người Trung-Hoa. Một khi đã vượt biển (quá-hải) ra đi, tất phải trở về, câu “cự kình-ba” lần thứ hai quả là cơn ác mộng lớn trong một đời người Trung-Hoa (Shore Of Pearls, trang79). Một phần bià cuốn sách “Shore Of Pearls” (Berkley & London, 1970), có kèm tấm Bản-Đồ Hainan với Giao-Chi-Dương và (sóng gió) kình-ba đuợc trình bày như ở trên.

CHỦ QUYẾN VỊNH BẮC VIỆT THEO THỎA ƯỚC 1887

Sau khi Nhóm Trí Thức Việt Nam Hải Ngoại ra Tuyên Cáo ngày 18/12/2000, phản-đối việc phân ranh bất-hợp-pháp lãnh thổ VN, Giáo-Sư Nguyễn-Văn-Canh đã viết thêm về vấn đề ấy. Theo đó, trong một phiên họp thương-thuyết Việt-Hoa vào tháng 8/1974, phiá VC viện dẫn Công Ước 1887 về biên giới dựa trên kinh tuyến Greenwich, 108 độ 3 phút 13 giây Đông (hay kinh tuyến Ba Lê 105 độ 43' của đuờng kinh tuyến Đông) làm đuờng phân ranh lãnh thổ v.v.... Tuy nhiên phía Trung-Hoa (TH) đã phản bác rằng đuờng ranh Đỏ ấy có mục tiêu chỉ dẫn quyền sở hữu chủ các đảo mà thôi, không phải là đuờng phân ranh về lãnh thổ. Vì thế các cuộc họp không đạt đuợc kết quả.

Căn cứ vào đó, phiá TH kêu nài rằng VN chiếm tới 2/3 lãnh thổ trong vịnh Bắc Việt, rằng TH phải ký hiệp ước ấy vì ở thế yếu, do Pháp ép buộc. Nhưng không bao giờ phiá TH nói tới sự kiện rằng khi Pháp điều đình với TH, Pháp đã cắt một phần đất thuộc Lai Châu bây giờ, cho TH nhập vào Vân Nam để đổi lấy làn ranh ấy. Riêng về việc cắt một phần lãnh thổ như trên cho TH, Pháp đã làm một việc bất hợp pháp. Mặt khác, hình thể VN chạy theo hình chữ S. Từ mỏm đầu chữ S, nơi giáp ranh giữa VN và TH, Uỷ Ban Pháp Hoa Phân Định Lãnh Thổ kẻ một đuờng mầu Đỏ Bắc-Nam là một điều công bằng và hợp lý. Phần lãnh hải nằm về phiá Tây của đuờng ranh thuộc VN. Phần lãnh hải này thuộc VN cũng phù hợp với Thuyết Lãnh Thổ Kế Cận mà Công Pháp Quốc tế vẫn hằng nhìn nhận.

Cuối cùng, đuờng Mầu Đỏ trên bản đồ có mục đích phân chia quyền sở hữu chủ các hải đảo trong vịnh, như TC nói, nếu không phải là đuờng ranh phân chia lãnh thổ, thì là đuờng gì?

DIỄN TIẾN ÂM MƯU LẤN BIỂN VÀ VÙNG "HAND OFF"

Cũng theo Giáo-Sư Nguyễn-Văn-Canh, với kiểu ăn nói cố hữu của CS như vậy, TC trong nhiều năm qua đã lạm dụng quyền hành và đơn phuong nới rộng chủ quyền của mình trong Vịnh Bắc Việt. (Xem Bản Ðồ Vùng Quần Ðảo Trường Sa)

Ngày 19 và 30/8/1992, 2 tàu của TC đuợc đua ra khoi để tìm dò dầu hỏa trong vịnh Bắc Việt. Rồi ngày 30/9, tàu Nam Hải 6 đuợc đua vào vùng mục tiêu mà Hà Nội nói là ở 112 cây số Đông Nam hải cảng Ba Lạt. Tàu khác tên là Phấn Đấu 5 đã hoàn tất công tác nghiên cứu địa chất vào 30/8 tại vùng Nam vịnh Bắc Việt. Tàu này hoạt động ngay tại của bể Hải Phòng, cách tỉnh Thái Bình 70 dậm (khoảng 120 cây số). Dù bị VC phản đối, TC trả lời rằng các tàu khoan dầu ấy hoạt động trong phạm vi lãnh thổ TH chiếu theo làn ranh của Vịnh. Thực-sự, các tàu ấy đã xâm phạm quá sâu vào phiá Tây của vịnh, sau khi vượt qua đuờng ranh Mầu Đỏ.

Trong suốt 3 thập-niên 70, 80, 90 bất chấp luật-pháp; Trung-Cộng ngang nhiên tự-động vẽ ra vùng biển “Hands-Off Area” cấm Việt-Nam không đuợc động-chạm đến. Còn TC vẫn tiếp-tục gửi tàu tớI thăm dò. Khu vực này rất rộng lớn, kéo dài 2 độ vi-tuyến (từ 18 đến 20 độ Bắc) rộng suốt 1 độ (từ 107 đến 108 độ Đông) 120HLx 60HL= 72,000HL vuông.

VÙNG "HAND OFF" CÓ GÌ?

Bằng đủ mọi cách âm-mưu, Trung-Cộng nhắm chụp dựt khu Trung-ương của Vịnh Bắc-Việt. Tại sao vậy? Để trả lời, người ta chỉ có một câu độc-nhất: Ở đó có nhiều tiềm-năng dầu khí.

Theo nguyên-lý căn-bản, Việt-Nam đuong-nhiên sở-hữu khu-vực trung-ương của Vịnh Bắc-Việt theo thỏa-ước 1887. Một lý-lẽ khác hiện-hữu còn mạnh mẽ hơn nhiều lần nữa: Đảo Bạch-Long-Vĩ của Việt-Nam nằm ở ngay vùng giữa Vịnh.

Ngay trước khi kỹ-thuật khai-thác dầu khí chưa tiến-bộ, các nhà địa-chất-học đã biết loại tài-nguyên quý-giá này thường nằm kẹt trong những lớp thủy-tra-thạch do sông ngòi bồi đắp liên-tục từ hàng triệu năm về trước. Trong Vịnh Bắc-Việt, sông Hồng tạo ra vùng những lớp kết-tầng này.

Bản-đồ và Tài-liệu của Đặc-San Petroleum News (USA, Feb. 1984) chỉ cho thấy thủ-đoạn của Trung-Cộng âm-mưu với các Công-ty ngoại-quốc xúc-tiến việc thăm-dò và khai-thác dầu lửa và khí đốt, thọc sâu vào phần biển Việt-Nam. Kinh-nghiệm thu-hoạch nhiên-liệu ở thềm lục-địa phiá Đông-Nam Nam-phần cho biết dầu lửa không có nhiều ở vùng châu-thổ Cửu-Long-Giang, cũng không tìm thấy gần bờ biển. Các túi dầu khí nằm tại vùng thủy-tra-thạch phiá ngoài khơi của Côn-Sơn. (Xem Bản Ðồ Vùng "Hand Off")

Vào thập-niên 1970, nhiều báo-cáo về tiềm-năng dầu hỏa và khí đốt trong vùng biển VN đã hoàn-tất. Chúng tôi xin trình-bày bản-đồ của Selig S. Harrison chỉ rõ ràng những khu-vực thủy-tra-thạch kết-tầng và những khu-vực mà các hãng dầu khí mong đợi để khai-thác. (An informative and interesting discussion of these reports can be found in Selig S. Harrison, China. Oil and Asia: Conflict Ahead? New York: Columbia University Press, 1977: 42-46.) (Xem Bản Ðồ Dầu Khí)

Vì thế, Trung-Cộng mạnh tay nhất-định chiếm cho hết khu-vực thủy-tra-thạch giữa vùng biển sâu của Bắc-phần, đúng ngay địa-điểm có khả-năng chứa đựng dầu khí nhiều nhất.

ÐƯỜNG PHÂN ÐỊNH MỚI VÀ VÙNG BIỂN CHIẾN LƯỢC TRUNG CỘNG

Sau khi thi-hành kế-hoạch với nhiều âm-mưu dài-hạn qua nhiều thập-niên, nay thời-cơ thực chín mùi; đã đến lúc Trung-Cộng ra tay chộp lấy thành-quả chính-thức. TC đã ép buộc đuợc Hà-Nội ký-kết một hiệp-ước hoàn-toàn có lợi cho họ. Từ sở-hữu 2/3 Vịnh Bìển, nay Việt-Nam chỉ còn giữ đuợc trên lý-thuyết một nửa (hay 53%) vịnh Bắc-Việt mà thôi.

Trên thực-tế, phần sở-hữu lại khác đi rất xa. Về tài-nguyên dầu khí, có thể TC đã chiếm gần trọng khu-vực chính. Đặc-biệt phần khai-thác ngư-nghiệp rất tệ-hại cho VN. Theo dự-đoán nhu duới đây, tài nguyên hải-sản sát bờ của VN còn giữ đuợc là một phần ba, nhưng phần tài nguyên vùng biển sâu đã thực-sự bị cướp đoạt tới 3/4 sản-lượng. Trong khi đó, hon một nửa dân-chúng Việt-Nam trông chờ Chính-quyền bảo-vệ nguồn sống muôn đời đành chịu thất-vọng.?

Chúng tôi xin đăng toàn-thể hai bản văn của chính-quyền Hà-Nội - tại phần Phụ-bản - làm bằng chứng để chúng ta cùng suy-luận.

VỊ TRÍ CHIẾN LƯỢC CỦA ÐẢO BẠCH LONG VĨ ÐÃ BỊ VÔ HIỆU

Thoạt nhìn, các Chiến-lược-gia nhận ngay ra rằng Trung-Cộng đã hoàn-toàn siết đuợc cổ Bắc Việt-Nam (và cả Việt-Nam nói chung) khi họ vô-hiệu-hóa hoàn-toàn vị-trí chiến-lược của đảo Bạch-Long-Vĩ.

Ngay từ lâu đời, Ông Cha ta đã chiếm đảo này để làm thế “ỷ-dốc” cho toàn-thể Đại-Việt. Thời Pháp, Hải-Quân họ cũng lo chuyện phòng-thủ này. Chính Lê Công Phụng, Thứ trưởng Ngoại giao Hà-Nội là Trưởng Phái-đoàn Thương-thuyết cũng biết vậy. Ông này viết: Phần Vịnh phía ta có khoảng 1 300 hòn đảo ven bờ, đặc biệt có đảo Bạch Long Vĩ nằm cách đất liền nước ta khoảng 110 km, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 130 km... Vịnh có vị trí chiến lược quan trọng đối với Việt Nam và Trung Quốc về an ninh và quốc phòng... Thế mà nay theo thỏa-ước 2001, TC đã tạo đuợc khu “biển chiến-lược” kè sát nước ta, chỉ cách Bạch-Long-Vĩ 15 Hải-lý (hay là chừng 1/2 tầm Hải-pháo thường, không kể đến Hỏa-tiễn của chiến-hạm mới TC). Đó là chưa kể tàu ngụy-trang đánh cá TC còn đuợc phép đến gần đảo 7.7 HL (Bờ nam Bạch-Long-Vĩ nằm trên vi độ 20 độ 07 phút 7 Bắc, xem thêm phần hợp-tác nghề cá).

HIỆP ÐỊNH MỚI VỀ ÐÁNH CÁ VÀ VÙNG BIỂN KHẢ DỤNG TRUNG CỘNG

Nguyên-văn Hiệp-định mới thiết-lập “vùng đánh cá chung ở trong Vịnh Bắc Bộ từ vi độ 20 độ xuống đuờng đóng cửa Vịnh. Vùng này có bề rộng là 30,5 hải lý kể từ đuờng phân định về mỗi phía và có tổng diện tích là 33.500 km2, tức là khoảng 27,9% diện tích Vịnh. Như vậy, đảm bảo cách bờ của mỗi nước là 30 hải lý : đại bộ phận cách bờ của ta 35 - 59 hải lý và có 2 điểm cách bờ là 28 hải lý”. (Xem Bản Ðồ Vùng Ðánh Cá)

Xem xét bản-đồ để ước-lượng, chúng ta thấy Trung-Cộng đã đuợc nghiễm-nhiên thừa-hưởng tới gần 2/3 mặt biển (47% + 16.5% + 1% (cửa Bắc-Luân) = 64.5% diện-tích Vịnh).

Ai cũng biết rằng để nuôi sống 1,300,000,000 dân-chúng thiếu-thốn protéine, Trung-Cộng đã từ lâu phát-triển các hạm-đội đánh cá xa bờ hùng-hậu vào bậc nhất nhì trên thế-giới. Đối đầu lại, Việt-Nam có khả-năng gì? Nếu Trung-Cộng muốn “đua bắp thịt ra oai”, đem toàn Hạm-đội ngư-thuyền viễn-duyên vào lần lượt “diễn-hành” trong Vịnh Bắc-Việt. Chỉ sau một mùa cá, toàn thể các loại cá nước sâu sẽ tuyệt-chủng, không còn một con sống sót để lại cho ngư-dân chúng ta.

MỚI CHỈ 40% CỦA ÐẢO MÀ ÐÃ LẤN CHIẾM ÐƯỢC NHIỀU ÐẾN VẬY SAO?

Dựa trên các yếu-tố bàn-thảo, VN đã sử-dụng quá nhiều “sở-hữu-tố” để mang ra thương-thuyết. Sau khi đã đặt trên bàn: 40 triệu dân-cư và gần một nửa duyên-hải toàn-quốc, Việt-Nam không khác chi một tay chơi non kém, dại dột “tố xả láng” và phung-phí tiền bạc trong một canh bạc khơi mào... Chúng tôi xin trở lại những chi-tiết này trong trong một đoạn dưới.

Phân-tích Hiệp-định, chính-quyền Hà-Nội phải nhận thấy rằng Việt-Nam chẳng thu lại đuợc bao nhiêu quyền-lợi mà vốn liếng đã kiệt. Làm sao VN còn đầy đủ sức-lực cho một cuộc thương-thảo nhiều lần quan-trọng hơn, về Hoàng-Sa, Trường-Sa cũng như toàn-thể chủ-quyền Biển Đông sau này.

Phiá Trung-Cộng vẫn chưa chính-thức bước vào cuộc thương-thảo lớn trên Biển Đông. Thế mà họ thực-sự đã thắng một hiệp quyết-định. Trung-Cộng mới chỉ đua ra một đọan bờ biển ngắn Liễu-Châu và 40% Hải-Nam lên bàn mà gặt hái ngay đuợc một khu-vực chủ-quyền lớn lao ngoài biển như vậy sao? Lý ra, ai cũng phải biết rằng duyên-hải còn lại của TC dài gấp ít nhất là 5, 7 lần đoạn Bắc-Luân - Mũi Oanh-Ca chứ!

QUAN NIỆM TÀI SẢN CHUNG CỦA NHÂN LOẠI TRONG LUẬT BIỂN LIÊN HIỆP QUỐC

Dù biết rằng hôm nay Trung-Cộng không thèm nói chuyện luật-lệ với đàn em Hà-Nội, nhưng toàn-thể thế-giới văn-minh tiến-bộ đều đã đổi thay bộ mặt tối tăm của thiên-hạ thuộc “Đấng Con Trời” ngày xưa. Đâu còn là thời-đại Thuộc-quốc quỳ-lạy Thiên-triều như khi xưa nữa. Ngày 10-12-1982, một Thỏa-ước của Liên-Hiệp-Quốc “United Nations Convention on the Law of Sea”, viết tắt là UNCLOS, đã ra đời. Nội-dung của thỏa-ước rất lý-tưởng như cho rằng Biển cả là tài-sản chung của Nhân-Loại”.

Vì là tài-sản chung nên yếu-tố dân-số sinh-sống tại duyên-hải rất quan-trọng. Nhiều yếu-tố khác cũng đuợc Luật Biển đề-cập đến như: hình-thể đáy biển nối dài ra khơi, tổng-số đảo, diện-tích lãnh-thổ cận-duyên, chiều dài bờ biển, tỷ-lệ bờ biển/ đất liền v.v... Những con số này đuợc dùng để tính-toán trong việc quy-định vùng hải-phận theo Luật Biển LHQ ngày nay.

ƯU THẾ CỦA VIỆT NAM BỊ CỘNG SẢN BỎ QUA VÌ CẮT BIỂN CẦU THÂN


Hình-ảnh duyên-hải đảo Hải-Nam với núi đá cằn cỗi. Từ trái sang là Mui Oanh Ca, False Hill, Flat Hill, đến núi Etna và núi nhọn Lak Pang. Hải-đồ Mỹ HO No.3153

Cho dù yêu-cầu về đuờng Brévié trong Hiệp-ước Pháp-Hoa 1887 có bị Trung-Cộng bỏ qua, những yếu-tố căn-bản pháp-lý hiện-hành cũng vẫn tạo nhiều ưu-thế cho chủ-quyền Việt-Nam. Cho dù không phải là chuyên-gia Luật Biển, chúng tôi cũng xin đon-cử một vài điều căn-bản xác-quyết như sau:

-Hình-thể Thềm Lục-địa Việt-Nam kéo dài chạy thoai thoải ra biển rõ rệt chiếm ưu-thế hơn bờ biển sâu của Đảo Hải-Nam. (Xem Bản Ðồ Ðường Phân Ðịnh Mới)

Bạch-Long-Vĩ với các yếu-tố dân-sinh, lịch-sử, kinh-tế xứng đáng đuợc hưởng quy-chế một hòn đảo, tương-tự như Hải-Nam hay bất cứ một hòn đảo nào khác. Về địa-lý, Bạch-Long-Vĩ là hòn đảo lớn rất rộng, có diện tích tới hơn 2,5 km2, xuýt xoát Đảo Cồn Cỏ (3 cây số vuông). (Xem Bản Ðồ Ðường Căn Bản (Baseline))

Trong các sách quốc-tế về Hải-Hành, đảo Bạch-Long-Vĩ đuợc mô-tả là một đối-vật quan-trọng cho người đi biển, độ cao sừng sững lên tới 186 feet. Chắc-chắn không có một “người đuợc gọi là hiểu biết” nào lại đồng-ý xếp hải-đảo nổi tiếng Bạch-Long-Vĩ (huyện-đảo này gần 1,000 dân-cư) đồng-hạng với một hòn đá tro-trọi cùng quy-chế tối-thiểu 15 hải-lý cho đặc-quyền kinh-tế như vậy!

- Chiều dài bờ biển lục-địa Việt-Nam khúc khuỷu bao quanh Vịnh dài gần gấp 2 lần bờ biển đối-diện của đảo Hải-Nam và bán-đảo Liễu-Châu thuộc Trung-Cộng. Hai ngàn đảo VN cũng là một con số áp-đảo khi so sánh với chừng 5 hải-đảo của Hải-Nam.

-  Dân-cư Việt-Nam sinh-sống tiếp-cận với vịnh Bắc-Việt trong vòng đai cách biển 60 hải-lý hiện nay lên tới 40 triệu người. Dân-số này nhiều gấp 4 đến 6 lần dân-số duyên-hải Trung-Cộng, tuỳ theo cách tính toán. Dân Trung-Hoa sống ở phiá Tây bán-đảo Liễu-Châu rất thưa thớt. Dân-số đảo Hải-Nam chỉ có khoảng 7 triệu người mà thôi. Nhiều lắm trong khu-vực liên-hệ (40% duyên-hải của đảo Hải-Nam) từ bán-đảo Liễu-Châu tới Mui Oanh-Ca, dân-cư không quá 3, 4 triệu. Không có một thành-phố nào của TC đáng kể là to lớn như hàng chục đô-thị của Việt-Nam.

- Khảo-cổ văn-minh-học thế-giới và cả sử Trung Hoa cũng chứng-minh rằng những người Việt đã từng làm chủ mọi trong khi người Tàu chỉ mới xuất-hiện ngoài biển này từ thời Hán, tức là mới 2 ngàn năm mà thôi. Sử Trung-Hoa lại còn ghi rõ những chi-tiết là ngoài vùng Châu-nhai phiá Bắc đảo, dân-cư đảo Hải-Nam không chịu chấp-nhận Hoa-thuộc, luôn luôn kháng-chiến dành quyền tự-chủ. Cho đến thời-gian gần đây, tình-hình mới tạm ổn!

CHUYỆN KHÓ HIỂU: ÐƯỜNG CĂN BẢN CỦA DUYÊN HẢI VIỆT NAM

Bờ biển và bờ đảo thường lởm chởm, chỗ lồi chỗ lõm. Các đuờng ranh giới vì vậy rất ngoằn ngoèo phức-tạp. Để giải-quyết vấn-đề chung cho các quốc-gia duyên-hải hay quần-đảo, một sự đồng-ý đã đuợc đua vào Luật Biển LHQ. cho phép những nước đó đuợc vẽ những đoạn Đuờng Thẳng Căn-bản (Baselines) nối liền các mui đất và đảo. (U.N. Convention on the Law of the Sea, Dec. 10, 1982, pt. 11, S 3, 21 I.L.M. 1261, 1273; Kenneth R. Simmonds, U.N. Convention on the Law of the Sea 1982 at B27 (1983). Part II, # 3).

Ý-thức sớm sự quan-trọng này nên vào ngày 12-11-1982, Việt-Nam công bố một số Đuờng Căn-bản (mà họ gọi là Đuờng Cơ-Sở) từ Poulo Wai đến Đảo Cồn Cỏ. Các Đuờng Cơ-Sở trong vịnh Bắc-Việt (tức từ Đảo Cồn Cỏ đến Đảo Trà Cổ) hoàn-toàn không đuợc vẽ.

Theo luật gia Kriangsak Kittichaisariee, nếu chỉ kể bốn đoạn (162, 161, 149 và 105 hl) trong 10 đoạn thẳng căn bản (dài tổng-cộng 850hl), nội hải (internal waters) Việt-Nam cũng đã chiếm tới 27,000 dậm vuông. (Law of the Sea and Maritime Boundary Delimitation in South-East Asia, Oxford University Press, 1992: 16-17.) Đuờng căn-bản như vậy làm gia-tăng diện-tích những khu-vực thuộc chủ-quyền quốc-gia lên rất nhiều.

Giới Luật-gia cho dù đồng-ý hay không về cách-thức vẽ đuờng cơ-sở ấy, họ cũng đều nghĩ rằng Việt-Nam rất quyết-tâm trong việc bảo-vệ lãnh-hải. Tất cả đã nhầm lẫn lớn vì sự mềm yếu của Hà-Nội ngay sau đó... Gần 20 năm đã qua đi trong một yên-lặng khó hiểu, chưa bao giờ người ta thấy Đảng CS hay Nhà Nước VN phổ-biến các đuờng cơ-sở cho những hải-đảo chằng-chịt tại Vịnh Bắc-Việt. Trong thương-thảo, phái-đoàn HàNội không giám hó hé gì với Bắc-Kinh, để Trung-Cộng mặc-tình thao-túng.

MỐI HẠI KINH KHỦNG TRONG TƯƠNG LAI NGẮN HẠN VÀ DÀI HẠN

Gần đây, dân Việt-Nam bắt đầu tiêu-thụ nhiều thịt hơn tổ-tiên của họ trước đây. Nguời sống ở thành-thị có thể đã quên là còn nhiều đồng-bào với mình tại vùng duyên-hà, duyên-hải vẫn thường ngày chỉ có cá với cơm! Nhiều thống-kê quốc-tế vẫn ghi-nhận trung-bình hàng năm một người Việt-Nam cần ít nhất là 35 kilo cá. Người Pháp đã ước-lượng 2/3 (66%) số protein nuôi sống nước Việt-Nam đến từ hải-sản. (Xem Bản Ðồ Mực Nước Vịnh Bắc Việt)

(Nguyên-văn: In the 1970s, per capital consumption of fish in Vietnam was at least 35 kilograms, and 50 percent of animal protein came from fish. (Vietnam: Fisheries and Navigation Policies and Issues, Valencia, Mark J.; in Ocean Development and International Law, Printed in the UK, Vol. 21, 1990, pp. 431-445.)

- Một khi mất Biển, nguồn lợi đánh cá suy-giảm, tài-nguyên dưới lòng biển thuộc ngoại-bang. Và... ô-nhiễm sẽ tới ngay. Trung-Cộng từ lâu nổi tiếng bất cần hậu-quả, miễn sao vơ vét cho đầy túi tham. Tại Vịnh Bắc-Việt, nay mai Trung-Cộng sẽ khai-thác lòng biển để lấy dầu lửa và khí đốt. Tai-nạn thảm-khốc tràn dầu chắc chắn xảy ra, Việt-Nam sẽ một mình chịu-đựng mọi khốn khổ ô-nhiễm. Gió thổi, nước trôi quanh năm từ Đông Bắc xuống Tây Nam lập tức mang Thần Chết đến ngay bờ biển và duyên-hải chúng ta. Vì địa-thế trên gió, trên nước; Trung-Cộng vẫn an-bình để sống chết mặc bay!

- Ngoài ra, nhìn xa về tương-lai cũng không phải là chuyện viển vông. Dòng lịch-sử dân-tộc đã chẳng dài nhiều ngàn năm đấy sao? Ngày xưa, Vịnh Bắc-Việt từng ăn sâu tới tận Việt-Trì. Ngày nay, vùng châu-thổ Sông Hồng đang tiếp-tục lấn nhanh ra biển. Trong khi chu-kỳ nóng lạnh của trái đất xoay chuyển, mực nước biển hạ xuống mỗi khi băng đá gia-tăng tại hai cực địa-cầu..., rồi sẽ có giai-đoạn bờ biển kéo dài ra tới đảo Bạch-Long Vi. Với những điều-kiện không thể cho là giả-tưởng khi Vịnh Bắc-Việt thâu nhỏ lại trong tương-lai, Trung-Hoa sẽ hoàn-toàn sở-hữu cả Vịnh Biển.

Xa hơn chút nưã - đến một ngày nào đó - cả hai bên bờ vùng Biển một thời đuợc gọi là “vịnh Bắc-Việt” đều thuộc lãnh-thổ Trung-Hoa. Xin mời người đọc xem thiết-đồ chúng tôi trình-bày dưới đây.

ÐƯỜNG PHÂN THỦY VÀ MỘT ÐƯỜNG PHÂN RANH HỢP LÝ

Trung-Cộng đã chấp-nhận quan-niệm cổ-truyền “dùng đuờng phân thủy làm ranh-giới” trên lục-địa (xem thông-báo về hiệp-ước biên-giới của CSVN). Đuờng phân- thủy ngoài biển cũng phải đuợc tôn-trọng. Chúng tôi trình-bày đuờng phân-thủy của Vịnh Bắc-Việt vì sự liên-hệ của nó gắn chặt với địa-thế đáy biển VN (đặc biệt là Vịnh Bắc-Việt) chạy dài rất xa ra ngoài khơi. (Xem Bản Ðồ Ðường Phân Thủy)

Khi TC tranh-luận kịch-liệt với Nhật-Bản về chủ-quyền Thềm Lục-địa quanh khu-vực đảo Điếu-Ngư (Daio Dao - Uotshuri-Shima 25o45' N 123o29' E), họ đã dùng ưu-thế địa-lý này và đã đuợc một số Chuyên-gia Luật Biển bênh-vực, cho là hữu-lý.

Một nhận-xét nữa của giới Luật-gia cũng cho thấy đoạn cuối của đuờng Phân-Thủy cũng không xa bao nhiêu với đuờng Kinh-tuyến 108 độ 3 phút 13 giây Đông (của Công Ước 1887 về biên giới đã nói ở trên)

Tại sao mà luật-lệ lại không đồng-nhất (universal) và Việt-Nam lại bị thiệt-thòi quá nhiều như vậy. Chính-quyền Hà-Nội rồi ra sẽ phải trả lời câu hỏi đuợc đặt ra rất hợp-lý này.

Chỉ có sự chia cắt hợp-lý hải-phận mới đem lại một nền hòa-bình trên Biển. Là một nhóm người nhỏ bé nghiên-cứu một vấn-đề ngoài lãnh-vực chuyên-môn của mình, BBT Lướt-Sóng không có khả-năng trình luận-án khó-khăn nhu phân-định Vịnh Bắc-Việt. Tuy vậy, trong khi sưu-tầm tài-liệu, chúng tôi tìm thấy có nhiều cá-nhân và tổ-chức luật-pháp rất quan-tâm cho Hòa-bình Thế-giới, đã đi tìm những giải-pháp công-bằng cho cả hai quốc-gia Hoa-Việt.

CHÍNH QUYỀN CHÂN CHÍNH PHẢI QUYẾT TÂM BẢO VỆ LÃNH THỔ

Việc phân chia hải-phận Vịnh Bắc-Việt cũng như việc xác-định chủ-quyền Quốc-gia chúng ta trong những vùng đất, vùng biển nào khác đều quan-trọng. Một chính quyền chân chính phải quyết tâm bảo vệ lãnh thổ.

Công-pháp Quốc-Tế đứng về phía Việt-Nam. Trong tinh-thần thượng-tôn luật-pháp, ý-thức của nhân-loại đang gia-tăng về một trật-tự cần-thiết trên biển; thời-gian hiển-nhiên cũng đứng về phía dân-tộc chúng ta. Điều cần-thiết lúc này là Việt-Nam phải làm sáng-tỏ chính-nghiã chủ-quyền của mình cùng cộng-đồng thế-giới. Nếu vì đối-phương hiếp-đáp, áp-bức trong bàn hội-nghị mà cuộc điều-giải bất- thành, Việt-Nam cần đua vụ vịnh Bắc-Việt này (cũng như những tranh-chấp các quần-đảo Hoàng Sa Trường Sa) ra trước Tòa-Án Quốc-Tế.

-   Sau nữa, toàn dân trong cũng như ngoài nước hy-vọng rằng nhà cầm-quyền Cộng-Sản Việt-Nam không nên muối mặt ký-kết thêm hiệp-định bất bình-đẳng một lần nữa. Dù chót đã hứa với Bắc-Kinh sẽ thoả-thuận về những tranh-chấp Biển Đông trong những năm tới, Cộng-sản Hà-Nội nên hồi-tâm lại. Phải đặt quyền-lợi quốc-gia trên hết. Không hèn, hãy phản công lại mới đuợc chứ!

NHẬN XÉT VÀ TUYÊN CÁO CỦA ỦY BAN BẢO VỆ LÃNH THỔ

Để thay cho phần kết-luận, chúng tôi xin trích-đăng một số nhận xét về tình-trạng biên-giới VN của Giáo-Sư Nguyễn Văn Canh và đoạn chót bản Tuyên-Cáo của Ủy Ban Bảo Vệ Lãnh Thổ như sau:

... Nội dung của các cuộc thương thuyết về phân định lãnh thổ không đuợc phổ biến. Người ta không biết rõ là phần đất nào bị mất, phần đất nào đã thu hồi đuợc, ngoại trừ các viên chức nắm giữ quyền hành trong Đảng. Dân tôc VN có quyền đòi hỏi ĐCSVN phải công bố rõ điều này.

1. Nhìn vào thực tại về biên giới trên đất liền và trong vùng vịnh Bắc Việt, cũng như có những bằng chứng về việc TC lấn chiếm đất mà VC hoặc không quyết tâm đòi lại hay không phản ứng đủ, và rất nhiều trường hợp chỉ phản ứng lấy lệ trong việc bảo vệ lãnh thổ để khỏi bị chê trách, người ta có quyền nghi ngờ rằng đây là việc chuyển nhượng tài sản quốc gia trá hình. Điều này đã đuợc tìm thấy trong văn kiện mà Phạm Văn Đồng ký ngày 14/9/1958, với tư cách Thủ tướng Chính phủ nước VNDCCH gửi cho Chu Ân Lai, Tổng Lý Quốc Vụ Viện, nước CHNDTH nhìn nhận thẩm quyền lãnh thổ của TC trên Biển Đông.

2. Qua tiến trình thương thảo giữa phai phe, như Hàn Niệm Long, thứ trưởng ngoại giao TC đặc trách Đông Nam Á, và cũng là trưởng phái đoàn thương thuyết biên giới với VC từ thập niên 1970, thì đây là công việc giữa hai Đảng: CSVN và CSTH. Hành pháp hay Quốc Hội chỉ là các tổ chức ngọai vi của Đảng. Vì vậy việc mỗi cơ quan này có tham dự vào việc ký kết hay phê chuẩn chỉ để thực hiện mục tiêu của Đảng. Đặc biệt rõ hơn là trường hợp Đỗ Mười, TBT của ĐCSVN ký thoả hiệp tạm thời thiết lập mục tiêu, nguyên tắc cho việc ký hai hiệp ước trên, vì Đỗ Mười không có một vai trò gì trong chính quyền. Các Hiệp ước này không có giá trị gì đối với quốc dân Việt Nam.

3. ĐCSVN phải hoàn tòan chịu trách nhiệm về việc chuyển nhượng bất hợp pháp đất đai này, dù vì lý do gì chăng nữa, nhất là tự đặt mình dưới sự chỉ đạo của ĐCSTH, trong muu đồ tìm sự hỗ trợ để đuợc tồn tại và triệt tiêu mọi lên tiếng về sự chuyển nhượng này.

4. Đối với TH, quốc dân VN coi đây là việc riêng của hai ĐCS, không liên hệ gì đối với quốc dân VN. Và hai hiệp ước trên nếu TC không trả lại những phần đất đã chiếm sẽ bị coi là vô hiệu.

Do đó, Trí Thức Việt Nam Hải Ngoại vào ngày 22/7/1994, sau đó là Ủy Ban Bảo Vệ Lãnh Thổ trong các Tuyên Cáo vào ngày 29/4/1995 và ngày 18/12/2000 đã lên tiếng về vấn đề ấy. (Lời Giáo-Sư Nguyễn Văn Canh).


Cho dù nỗi ưu-tư còn nhiều nhưng vì khổ báo có hạn, Lướt Sóng xin tạm ngưng lại đây. Xin cảm ơn Quý-Vị đã theo dõi bài viết gây nhức nhối này.

NHÓM LƯỚT SÓNG


PHỤ BẢN 1

Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ và hiệp định hợp tác nghề cá giữa Việt Nam - Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ

Lê Công Phụng, Thứ Trưởng Ngoại Giao

Nhân chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Chủ tịch Trần Đức Lương, ngày 25-12-2000, nước ta và Trung Quốc đã ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ. Lễ ký kết đuợc tổ chức với sự chứng kiến của Chủ tịch Trần Đức Lương và Chủ tịch Giang Trạch Dân. Sự kiện trọng đại mang tính lịch sử này diễn ra vào thời khắc rất đặc biệt, nhân loại đang hối hả thu xếp hành trang giã từ thế kỷ XX đi vào thế kỷ XXI và thiên niên kỷ mới. Sự kiện này cũng diễn ra vào điểm đỉnh tốt đẹp của quan hệ Việt - Trung kể từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay. Nhân dân ta đón nhận việc ký kết hai hiệp định trên như một thành công lớn của hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong năm 2000, coi đó là nhân tố hết sức quan trọng trong việc tăng cuờng, thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, cũng như trong việc duy trì, củng cố hòa bình, ổn định và hợp tác trong khu vực.

- Trong các vấn đề do lịch sử để lại trong quan hệ giữa ta và Trung Quốc có 3 vấn đề liên quan đến biên giới lãnh thổ là xác định đuờng biên giới trên đất liền; phân định Vịnh Bắc Bộ và vấn đề trên Biển Đông (mà thực chất là vấn đề chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như đối với vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của ta), trong các vấn đề trên, vấn đề biên giới trên đất liền đã đuợc giải quyết bằng việc ký kết Hiệp ước trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày 30-12-1999.

Vịnh Bắc Bộ đuợc bao bọc bởi Việt Nam và Trung Quốc có diện tích 123.700 km2, chiều ngang nơi rộng nhất khoảng 320 km2 (176 hải lý) và nơi hẹp nhất khoảng 220 km2 (119 hải lý). Chiều dài bờ biển phía Việt Nam khoảng 763 km2, còn phía Trung Quốc khoảng 695 km. Phần Vịnh phía ta có khoảng 1 300 hòn đảo ven bờ, đặc biệt có đảo Bạch Long Vi nằm cách đất liền nước ta khoảng 110 km, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 130 km.

Vịnh có vị trí chiến lược quan trọng đối với Việt Nam và Trung Quốc về an ninh và quốc phòng. Đặc thù của Vịnh là chiều ngang tương đối hẹp, từ trước tới nay hai nước chưa hề phân định Vịnh. Theo Công ước luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc, thì toàn bộ Vịnh Bắc Bộ là vùng chồng lấn và trong thực tế thời gian qua có tranh chấp, ảnh hưởng không tốt đến quan hệ giữa hai nước.

Trước tình hình đó, hai nuớc đều có nhu cầu tiến hành đàm phán để phân định Vịnh Bắc Bộ nhằm đạt hai mục tiêu cơ bản và lâu dài : một là xác định đuờng phân giới rạch ròi, phân chia vùng biển, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước láng giềng; hai là giải quyết vấn đề tồn tại do lịch sử để lại, tạo cơ sở và động lực thúc đẩy quá trình xây dựng lòng tin, tăng cuờng quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa hai Đảng, hai nước theo phương châm 16 chữ mà hai đồng chí Tổng Bí thư đã thỏa thuận.

Ngoài ý nghia về an ninh, quốc phòng, Vịnh Bắc Bộ còn có ý nghia lớn về kinh tế, có nguồn lợi hải sản phong phú. Hai nước đều có nhu cầu hợp tác đánh bắt, bảo vệ môi trường và bảo vệ và nuôi trồng nguồn hải sản trong Vịnh. Vào các năm 1957, 1961 và 1963 hai nước có ký các thỏa thuận cho phép thuyền buồm của hai bên đuợc đánh bắt trong Vịnh ngoài phạm vi tương ứng 3 hải lý, 6 hải lý và 12 hải lý tính từ bờ biển và hải đảo mỗi bên. Các thỏa thuận này đã hết hiệu lực vào những năm 70. Trong quá trình đàm phán về phân định Vịnh Bắc Bộ, phía Trung Quốc kiên trì đề nghị lập vùng đánh cá chung đồng thời với việc phân định Vịnh Bắc Bộ và nhấn mạnh nếu không thỏa thuận đuợc vấn đề này thì khó có thể giải quyết đuợc vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ trong năm 2000.

Ta không chủ trương gắn vấn đề nghề cá mang tính kinh tế, kỹ thuật với vấn đề phân định quốc giới mang tính chiến lược lâu dài. Nhưng ta cũng nhận thức rõ là việc không giải quyết đuợc vấn đề nghề cá có thể dẫn đến hậu quả là khó giải quyết đuợc vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ trong năm 2000. Lúc đó toàn bộ Vịnh sẽ tiếp tục bị coi là vùng chồng lấn giữa hai bên, và tình hình ở đó sẽ tiếp tục mất ổn định.

Thực tiễn quốc tế cho thấy nhiều nước có vịnh hoặc vùng biển chung cũng đã thỏa thuận lập vùng đánh cá chung và về mặt pháp lý thì điều đó không trái với Công ước luật Biển năm 1982. Nhằm mục đích tạo thuận lợi tối đa cho việc giải quyết vấn đề phân định và trên cơ sở cân nhắc kỹ mọi khía cạnh trong quan hệ hai nước cũng như thực tiễn quốc tế, ta đã đồng ý lập vùng đánh cá chung ở trong Vịnh Bắc Bộ. Cuộc đàm phán về biên giới lãnh thổ, trong đó có vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ giữa ta và Trung Quốc đã đuợc tiến hành từ đầu những năm 70.

Trong các năm 1974 và 1977 - 1978, hai nước đã tiến hành 2 vòng đàm phán về phân định. Nhưng do điều kiện lúc đó nên đàm phán không có kết quả. Sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ, hai bên đã quyết định thương lượng để giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ, trong đó có vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ. Hai nước đã ký Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới - lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày 19-10-1993, trong đó nêu rõ phương hướng phân định Vịnh Bắc Bộ là “Hai bên sẽ áp dụng luật quốc tế và tham khảo thực tiễn quốc tế, theo nguyên tắc công bằng và tính đến mọi hoàn cảnh liên quan trong Vịnh để đi đến một giải pháp công bằng”. Thực hiện thỏa thuận đó, từ 1993 đến năm 2000, hai bên đã triển khai 7 vòng đàm phán cấp chính phủ, 3 cuộc gặp giữa hai Trưởng đoàn đàm phán cấp chính phủ và 18 vòng đàm phán cấp chuyên viên.

Một thuận lợi hết sức lớn lao đối với quá trình đàm phán là quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa hai nước không ngừng đuợc tăng cuờng, ngày càng đi vào thực chất và toàn diện, lãnh đạo của hai bên luôn luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao. Trong các chuyến thăm Trung Quốc vào năm 1997 của Đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười và tháng 2-1999 của Đồng chí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, lãnh đạo cấp cao hai nước đạt đuợc thỏa thuận là khẩn trương đàm phán để giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền trước năm 2000 và hoàn thành việc phân định để ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ trong năm 2000. Với tinh thần đó, trong năm 1998 và 1999 hai bên chủ yếu dành ưu tiên cho việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền. Năm 2000 cuộc đàm phán về phân định Vịnh Bắc Bộ đuợc đẩy mạnh và đi vào giải quyết thực chất (1 vòng đàm phán cấp chính phủ, 3 cuộc gặp liên tiếp giữa 2 trưởng đoàn cấp chính phủ và 8 vòng đàm phán cấp chuyên viên).

Trong quá trình đàm phán, hai bên đã vận dụng các nguyên tắc như sau để giải quyết : một là, căn cứ vào các quy định của Công ước luật Biển 1982 của Liên hợp quốc cũng như các nguyên tắc luật pháp quốc tế và tập quán đuợc công nhận rộng rãi; hai là, hai bên tính đến các đặc thù của Vịnh Bắc Bộ như sự hiện diện của các đảo, chiều dài bờ biển v.v... ; ba là, việc giải quyết vấn đề phân định phải xuất phát từ thực trạng cũng như nhu cầu phát triển quan hệ giữa hai nước; bốn là, bảo đảm nguyên tắc công bằng và chiếu cố lợi ích của nhau.

Về diện tích, phía Trung Quốc kiên trì chủ trương đại thể chia đôi, thừa nhận ta có thể nhỉnh hơn nhưng hơn không đáng kể. Ta chủ trương giải pháp công bằng phải phù hợp với các hoàn cảnh hữu quan trong Vịnh như sự hiện diện của các đảo của ta, chiều dài bờ biển của ta lớn hơn v.v... Do đó, kết quả của giải pháp phân định phù hợp với yêu cầu ta đặt ra. Về diện tích tổng thể ta đuợc 53,23% diện tích Vịnh, Trung Quốc đạt 46,77% (ta hơn Trung Quốc 6,46% tức là khoảng 8205 km2), đuờng phân định cách đảo Bạch Long Vi 15 hải lý, đảo Cồn Cỏ đuợc hưởng 50% hiệu lực. Về khía cạnh tài nguyên, giải pháp phân định đạt đuợc cũng bảo đảm việc phân chia lợi ích một cách công bằng. Hai bên đã phân chia rõ ràng phần thềm lục địa để mỗi bên đều có thể tiến hành thăm dò, khai thác tài nguyên trong phạm vi thềm lục địa của mình mà không bị bên kia can thiệp hoặc gây khó khăn. Trong truờng hợp có cấu tạo mỏ vắt qua đuờng phân định thì hai bên sẽ thỏa thuận với nhau về việc khai thác và phân chia lợi ích của việc khai thác đó.

Cuộc đàm phán về nghề cá đuợc khởi động muộn hơn. Cho mãi đến tháng 4-2000 ta mới tán thành đàm phán nghề cá. Qua 6 vòng đàm phán cấp chuyên viên về nghề cá, hai bên nhất trí lập vùng đánh cá chung ở trong Vịnh Bắc Bộ từ vi độ 20o xuống đuờng đóng cửa Vịnh. Vùng này có bề rộng là 30,5 hải lý kể từ đuờng phân định về mỗi phía và có tổng diện tích là 33.500 km2, tức là khoảng 27,9% diện tích Vịnh. Như vậy, đảm bảo cách bờ của mỗi nước là 30 hải lý : đại bộ phận cách bờ của ta 35 - 59 hải lý và có 2 điểm cách bờ là 28 hải lý. Thời hạn của vùng đánh cá chung là 15 năm (12 năm chính thức và 3 năm gia hạn). Hai bên cũng đã thỏa thuận các điều khoản liên quan đến bảo vệ môi trường và bảo vệ và nuôi trồng nguồn hải sản trong Vịnh.

Ba nguyên tắc lớn của vùng đánh cá chung là : vùng đặc quyền kinh tế của nước nào thì nước đó có quyền kiểm tra, kiểm soát các tàu cá đuợc phép vào vùng đánh cá chung; sản lượng và số tàu thuyền đuợc phép vào vùng đánh cá chung là dựa trên nguyên tắc bình đẳng, căn cứ vào sản lượng đuợc phép đánh bắt, xác định thông qua điều tra liên hợp định kỳ; mỗi bên đều có quyền liên doanh hợp tác đánh cá với bên thứ 3 trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Hai bên thỏa thuận lập Uủy ban liên hợp nghề cá để xây dựng quy chế liên quan đến vùng đánh cá chung.

- Ngoài vùng đánh cá chung ra, hai bên thỏa thuận về dàn xếp quá độ với thời hạn 4 năm ở phía Bắc vi tuyến 20o cho tàu thuyền của hai bên tiếp tục đuợc đánh bắt. Phạm vi cụ thể của vùng này hai bên sẽ tiếp tục thảo luận. Sau thời hạn quá độ, tàu thuyền của các bên về đánh cá ở vùng đặc quyền kinh tế của mình, trừ khi đuợc bên kia cho phép.

Đồng thời hai bên cũng thỏa thuận lập một vùng đệm nhỏ ở ngoài cửa sông Bắc Luân với mục đích là tạo thuận lợi cho việc ra vào của các tàu cá nhỏ (nếu phát hiện các tàu đó đánh cá thì cảnh cáo và buộc rời khỏi vùng nước của mình). Vùng này dài 10 hải lý và tính từ đuờng phân định rộng 3 hải lý về mỗi bên.

Về tổng thể, các giải pháp đạt đuợc trong quá trình đàm phán và đuợc thể hiện trong hai bản Hiệp định là thỏa đáng, đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của cả hai bên. Các Hiệp định đó là kết quả của quá trình đàm phán lâu dài, thể hiện nỗ lực, thiện chí và tính đến sự quan tâm, nhân nhượng từ cả hai phía.

   Đối với ta, việc ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ tiếp theo việc ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền năm 1999, có ý nghia rất quan trọng vì qua đó ta đã đạt đuợc mục tiêu là giải quyết đuợc hai trong ba vấn đề biên giới - lãnh thổ tồn đọng lâu nay giữa hai nước. Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc năm 1999 và Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ tạo nên một cơ sở pháp lý vững chắc để quản lý biên giới, lãnh thổ, thực hiện mục tiêu là xây dựng biên giới Việt Nam - Trung Quốc thành biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài, và tạo động lực thúc đẩy, tăng cuờng quan hệ hai nước.

Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ đã xác định trọn vẹn đuờng biên giới lãnh hải giữa ta và Trung Quốc ở khu vực ngoài cửa sông Bắc Luân, phân định rõ ràng phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và phạm vi thềm lục địa của hai nước ở Vịnh. Hiệp định đã ghi nhận cam kết của hai bên tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mỗi bên trong phạm vi các vùng biển của mình. Hiệp định cũng đã đề ra cách giải quyết khi xảy ra trường hợp hai bên chung nhau các mỏ tài nguyên khoáng sản nằm trong Vịnh.

Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ vừa mới ký với Trung Quốc này là Hiệp định phân định biển thứ hai của nước ta (Hiệp định phân định biển đầu tiên là Hiệp định phân định các vùng biển giữa Việt Nam và Thái Lan ký năm 1997) và là Hiệp định phân định biển gần đây nhất ở trong khu vực). Do đó ý nghia của Hiệp định này không chỉ dừng lại trong khuôn khổ quan hệ Việt - Trung mà thực sự góp phần vào việc ổn định hòa bình trong khu vực.

Hiệp định hợp tác nghề cá đã góp phần quan trọng đưa đến việc ký kết Hiệp định phân định; thể hiện rõ sự nhân nhượng, thông cảm lợi ích của nhau, phù hợp với phương châm “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”; trong quan hệ hai nước.
(http://www.cpv.org.vn/tccs/022001/6_lecongphung.htm)

(Tạp chí Cộng Sản Tel: 8252061, Fax: 8222846

19 Phạm Ngọc Thạch,
Q3, TP Hồ Chí Minh
Tel: 8225768

Tổng biên tập: Hà Đăng.)


PHỤ BẢN 2

Về việc ký hiệp định phân định vịnh bắc bộ và hiệp định hợp tác nghề cá giữa Việt Nam và Trung quốc

Ngày 25 tháng 12 năm 2000, tại Bắc Kinh Trung Quốc, Chính phủ Cộng hoà Xã hội chủ nghia Việt Nam và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá giữa hai nước trong Vịnh Bắc Bộ. Theo yêu cầu của bạn đọc, Tạp chí tóm tắt sự kiện này như sau:

A. Về Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ:

Vịnh Bắc Bộ có diện tích 126.250km2, chiều ngang nơi rộng nhất khoảng 310km và nơi hẹp nhất khoảng 220km. Khác với biên giới trên bộ, đuờng ranh giới trong Vịnh Bắc Bộ giữa ta và Trung Quốc từ trước đến nay chưa được xác định. Dưới thời Pháp thuộc, chính quyền Pháp và nhà Thanh mới thoả thuận lấy đuờng kinh tuyến Paris 105 độ 04 3 Đông (kinh tuyến Greenwich 108 độ 03 13” Đông) để quy thuộc chủ quyền của các đảo ở khu vực sát cửa sông Bắc Luân.

Do đặc thù của Vịnh chưa phân định, nên toàn bộ Vịnh Bắc Bộ là vùng luôn xảy ra các tranh chấp giữa ta và Trung Quốc, nhất là về thăm dò tài nguyên dầu khí và về đánh cá. Do đó, rất cần đàm phán để ký kết Hiệp định phân định giữa hai nước. Vào những năm 70, ta và Trung Quốc đã có hai cuộc đàm phán về vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ (vào năm 1974 và 1977 - 1978), nhưng chưa có kết quả.

   Sau khi hai nước bình thường hoá quan hệ, hai Đảng, hai nước đã quyết định giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ, trong đó có vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ. Với chủ trương đó, ngày 19-10-1993 hai bên đã ký “Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa nước Cộng hoà Xã hội chủ nghia Việt Nam và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa”, trong đó quy định về Vịnh Bắc Bộ là “Hai bên sẽ áp dụng luật quốc tế và tham khảo thực tiễn quốc tế theo nguyên tắc công bằng và tính đến mọi hoàn cảnh hữu quan trong Vịnh để đi đến một giải pháp công bằng”. Từ đó đến nay, vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ đã đuợc hai bên bàn bạc tại 7 vòng đàm phán cấp Chính phủ, 3 cuộc gặp giữa hai Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ, 18 vòng đàm phán cấp chuyên viên và một số vòng họp không chính thức giữa các chuyên viên phân định.

- Vào năm 1997, nhân dịp đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười thăm Trung Quốc và tháng 2-1999, nhân dịp đồng chí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thăm Trung Quốc, lãnh đạo cao nhất của hai Đảng, hai nước đã thỏathuận tích cực thúc đẩy đàm phán để hoàn thành việc phân định và ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ trong năm 2000.

- Trong quá trình đàm phán, hai bên đã căn cứ vào Công ước năm 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển, các nguyên tắc luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế đuợc công nhận, cũng như tính đến các hoàn cảnh hữu quan trong Vịnh Bắc Bộ, thương lượng hữu nghị để giải quyết vấn đề một cách công bằng, hợp lý. Dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của Bộ Chính trị và Chính phủ hai nước, cuối năm 2000 hai bên đã hoàn thành việc phân định dẫn đến việc ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ vừa qua.

-  Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ là hiệp định phân định mang tính tổng hợp. Xác định rõ biên giới lãnh hải của hai nước ở ngoài cửa sông Bắc Luân, cũng như giới hạn vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của ta và Trung Quốc ở trong Vịnh Bắc Bộ. Về diện tích tổng thể, tính theo mực nước trung bình thì ta đuợc 53,23%, Trung Quốc đuợc 46,77% diện tích Vịnh. Đuờng phân định cách đảo Bạch Long Vi 15 hải lý (về phía bờ đảo Hải Nam). Đuờng đóng cửa Vịnh nối mui Oanh Ca của Trung Quốc, qua đảo Cồn Cỏ đến bờ biển của Việt Nam. Hiệp định đã khẳng định nghia vụ của hai bên tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mỗi bên đối với lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình theo đuờng phân định. Các trường hợp đuờng phân định đi qua các cấu tạo địa chất có khả năng có dầu khí thì hai bên đã thoả thuận sau này nếu phát hiện thấy dầu khí sẽ hợp tác phân chia lợi ích một cách công bằng khi khai thác.

B. Về Hiệp định hợp tác nghề cá ở trong Vịnh Bắc Bộ giữa ta và Trung Quốc.

Vào các năm 1957, 1961 và 1963, ta và Trung Quốc ký các thoả thuận cho phép tàu thuyền đánh cá của hai bên đuợc đánh cá chung trong Vịnh ngoài phạm vi tương ứng 3 hải lý, 6 hải lý và 12 hải lý tính từ bờ biển và hải đảo mỗi bên. Các thoả thuận này hết hiệu lực vào đầu những năm 70. Trong quá trình đàm phán về phân định, phía Trung Quốc kiên trì đề nghị lập vùng đánh cá chung đồng thời với việc phân định Vịnh. Nhằm mục đích tạo thuận lợi tối đa cho việc giải quyết vấn đề phân định và trên cơ sở cân nhắc kỹ mọi khía cạnh trong quan hệ hai nước, luật pháp và thực tiễn quốc tế (gần ta nhất là thực tiễn ký Hiệp định vùng đánh cá chung giữa Trung Quốc và Nhật Bản, giữa úc và In-đô-nê-xi-a), ta đã đồng ý mở các cuộc đàm phán riêng về vấn đề hợp tác nghề cá giữa hai nước ở trong Vịnh Bắc Bộ từ tháng 2/2000. Tháng 9/2000, nhân chuyến thăm làm việc của Thủ tướng ta tại Trung Quốc, lãnh đạo cấp cao hai nước khẳng định ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ vào cuối năm 2000.

- Qua 6 vòng đàm phán, hai bên đã thống nhất Hiệp định về hợp tác nghề cá, trong đó nội dung chính là lập vùng đánh cá chung noi tàu thuyền của cả hai bên đều đuợc đánh bắt theo quy định của Uỷ ban Liên hợp về nghề cá: Vùng đánh cá chung này nằm ở Nam vi tuyến 20 (phía Nam đảo Bạch Long Vi), có bề rộng là 30,5 hải lý kể từ đuờng phân định về mỗi phía và có tổng diện tích 33.500km2, tức là khoảng 27,9% diện tích Vịnh. Thời hạn của vùng đánh cá chung là 15 năm. Sau đó, việc hợp tác tiếp tục như thế nào là tuỳ hai bên hiệp thương thoả thuận. Ba nguyên tắc lớn của vùng đánh cá chung là: vùng đặc quyền kinh tế của nước nào thì nước đó có quyền kiểm tra, kiểm soát các tàu cá đuợc phép vào vùng đánh cá chung; sản lượng và số tàu thuyền đuợc phép vào vùng đánh cá chung là dựa trên nguyên tắc bình đẳng căn cứ vào sản lượng đuợc phép đánh bắt, xác định thông qua điều tra liên hợp định ký; mỗi bên đều có quyền liên doanh hợp tác đánh cá với nước thứ ba theo các quy định cụ thể của Hiệp định.

- Xuất phát từ tình hình đánh bắt của ngư dân Trung Quốc, hai bên đã đồng ý về dàn xếp quá độ trong vùng đặc quyền kinh tế của mỗi bên nằm ở phía Bắc vi tuyến 20 cho phép tàu thuyền hai bên đuợc tiếp tục hoạt động nghề cá trong thời hạn là 4 năm tại khu vực này. Còn ở phía biển sát cửa sông Bắc Luân, hai bên đồng ý lập một khu đệm dài 10 hải lý và rộng 6 hải lý (3 hải lý về mỗi phía kể từ đuờng biên giới lãnh hải) nhằm tạo thuận lợi cho việc ra vào của tàu thuyền hai bên.

C. Việc ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá giữa Việt Nam và Trung Quốc là sự kiện quan trọng đối với nước ta cũng như quan hệ Việt - Trung.

Với việc ký Hiệp định phân định, ta đã giải quyết dứt điểm đuợc vấn đề thứ hai trong ba vấn đề biên giới, lãnh thổ tồn tại lâu nay với Trung Quốc (biên giới trên bộ, Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông). Việc phân định một cách rõ ràng biên giới lãnh hải phía ngoài cửa sông Bắc Luân, phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong Vịnh sẽ tạo thuận lợi cho vệc quản lý và duy trì ổn định ở trong Vịnh, góp phần tăng cuờng sự tin cậy giữa hai bên, thúc đẩy quan hệ hợp tác mọi mặt giữa hai nước.

Tiếp theo việc ký Hiệp ước và giải quyết vấn đề biên giới với Lào, phân định vùng biển với Thái Lan, đang tích cực giải quyết một số vấn đề còn lại về biên giới trên đất liền và đi tới giải quyết vấn đề trên biển với Cam-pu-chia, giải quyết vùng chồng lấn với In-đô-nê-xi-a và đặc biệt là việc ký Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa ta và Trung Quốc năm 1999, việc ký các Hiệp định phân định và hợp tác nghề cá ở trong Vịnh Bắc Bộ là bước tiến mới quan trọng trong việc xây dựng môi trường hoà bình, ổn định xung quanh nước ta, tạo điều kiện cho chúng ta tập trung sức lực vào việc xây dựng và phát triển đất nước.

Việc hai nước Việt Nam - Trung Quốc hoàn thành giải quyết vấn đề phân định Vịnh Bắc Bộ góp phần tích cực vào việc củng cố hoà bình và ổn định ở khu vực./.
(http://www.cpv.org.vn/anpham/tutuong/032001/13_kyhiepdinh.htm)


(1). Giọng điệu khoa trương của Lê Xuân Tùng
Website Đảng Cộng sản Việt Nam công trình có ý nghia lớn lao - chào mừng Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Xuân Tùng, Uỷ viên Bộ Chính trị, phụ trách công tác tư tưởng văn hoá và khoa giáo (Phát biểu nhân dịpá công bố phát hành chính thức Website Đảng Cộng sản Việt Nam - Công trình chào mừng Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 10/04/2001)































































































































Qúi Vị là độc giả thứ:

đã viếng thăm Nguyệt San Ðoàn Kết - Thành Thật Cám Ơn.