Lời Mở Ðầu:
Thưa quý Niên Trưởng và quý bạn, có tham gia trong chuyến công tác Bầu tró, Ðồng Hới 1964. Người viết là một nhân chứng đi trong chuyến đó, vì thời gian đã quá lâu nên không thể nhớ hết hơn nữa lối hành văn thiếu mạch lạch, mong quý N/T và các bạn nếu biết xin bổ túc thêm, thành thật cám ơn.
Tôi và anh Nguyễn
Bảy lúc hồi còn niên thiếu, chúng tôi hai đứa cùng chung học dưới một mái
trường Tiểu- Học Thánh Giuse, Ðà nẵng. Gia đình 2 chúng tôi cách
nhau một con sông Hàn (sông Hàn Ðà Nẵng) đứa ở bên kia sông gọi là làng
Nhượng nghĩa, thằng ở bên nầy sông gọi là làng Ðức- Lợi (về sau này Ðức
Lợi và Thanh- Bồ cả 2 sát nhập lại gọi chung là Thanh Ðức). Hai đứa
chúng tôi thường nô đùa với nhau trong những lúc ra chơi và tan trường, đã
từng chia sẽ cho nhau từng cái càrem (ice cream). Có những khi chia phe
bắn nhau bằng những sợi giây thun và các cọng phượng cùng với những thằng
bạn đồng lứa khác thật hết sức hồn nhiên và vui thích, có những buổi chiều
thứ sáu cuối tuần tôi rủ anh Bảy về với bọn tôi để ở lại đá banh, có khi
năm bảy đứa hoặc có lúc ba bốn thằng mỗi bên, mãi mê chơi đến chiều tối
anh mới chịu trở về lại Nhượng Nghĩa, trên những chuyến đò ngang có những
cô thiếu nữ chèo đò thật mơ mộng, dễ thương.
Anh Nguyễn Bảy cao hơn tôi cả một cái đầu, anh rất vui tính mỗi lần gặp tôi thường nhoẽn một nụ cười vui vẽ. Sau nầy Nhượng Nghĩa và Thanh Ðức thành lập các đội bóng tròn Thanh Thiếu Niên, chúng tôi mỗi đứa một bên thĩnh thoảng gặp lại nhau trên sân cỏ, có cả những lúc chơi bóng chuyền với nhau nữa mỗi lần được dịp gặp nhau anh đều hỏi thăm tôi có khỏe không V.12? Tôi vội trả lời vẫn khỏe chứ, có khỏe tao mới đến chơi banh với mầy được hôm nay. Nói xong cả hai đứa cùng ôm nhau cười toe toét rất ư hồn nhiên. Thời gian sau nầy khôn lớn, mỗi đứa một nơi và nghe tin anh đã lập gia đình, còn tôi vẫn mang nhãn hiệu độc thân vui tính.
Vào khoảng cuối tháng 11 hoặc 12 năm 1963, chúng tôi hai đứa vô tình gặp lại nhau dưới mái nhà tôn xiêu vẹo trong cùng một chí hướng tương lai của thời trai lúc bấy giờ, căn nhà đã bỏ hoang phế tự lúc nào và anh em được một người của cơ quan tuyển mộ hẹn gặp gỡ nhau tại đó, tựa như những chàng điệp viên lai vãng tới để lấy tin tức. Tôi và anh Tòng A được một chiếc xe Jeep chở tới trước, khoảng độ 15 phút sau thì lại thấy anh Châu B và anh Bảy cũng được người có thẩm quyền chở tới, tất cả anh em chúng tôi 4 thằng không hẹn mà gặp và rồi ôm nhau với nỗi vui mừng khôn tả nhất là anh Bảy vì đã quá lâu tôi không được gặp, mười phút sau đó chúng tôi được gặp thêm anh Hiển (râu) anh Hợp và anh Lạc từ làng Tam Tòa xuống.
Tất cả anh em chúng tôi tổng cộng 7 người được mời lên một chiếc xe GMC (Quân đội) chạy về hướng cầu Trịnh Minh Thế Ðà Nẵng khi tới ngã ba viên tài xế quẹo phía tay phải trực chỉ Non Nước, chạy đến ngang làng Mỹ Thị xe quẹo trái lần theo dấu đường mòn quanh co, tiến vào rừng thông (Mỹ Thị) thì tới một doanh trại. các dãy nhà này được lợp bằng tôn chung quanh xây bằng những viên táp lô, cuối sân có một giếng nước và một căn nhà bếp chứa khoảng được 20 hoặc 30 chục người ngồi ăn, trong căn trại chính đã có sẵn một số giường nệm đôi lên đến con số 30 chục và một người Sỹ quan trực đứng sẵn ở đó, sau nầy tôi được biết tên ông ta là Chuẩn Úy Ninh, quê quán ở Huế.
Chúng tôi ở tạm đó một thời gian, để chờ tiếp nhận thêm một số anh em ở các nơi về cho đủ túc số để nhập khóa. Vào khoảng đầu tháng 1 năm 1964, khóa II Biệt Hải bắt đầu học, trong thời gian đầu 3 tháng đầy nhiều cam go cực khổ nếm đủ mùi vị cay đắng nhất là trong tuần huấn nhục (tuần Ðịa Ngục) một số anh em đã chấp nhận bỏ cuộc vì không chịu nỗi, hoặc thiếu sức khỏe, được trả về nguyên quán hoặc đồng ý sát nhập vào Dân Sự Chiến Ðấu (lính gác,doanh trại) Số anh em còn lại hội đủ điều kiện được phân chia ra các toán. Sau ngày mãn khóa tôi và anh Tòng A, anh Châu B, anh Hiển (râu) anh Hợp B và anh Lạc tất cả được đưa về toán Cumulus (Trại 4) còn anh Bảy và các bạn khác được đưa về toán Mercury (Trại 3) ở Mỹ Thị.
Trong thời gian 1964 đến 1966 chúng tôi đã đột kích vào lòng đất địch nhiều lần, từ Ðồng Hới ra đến tận Nghệ An, Thanh Hóa mục tiêu được chỉ định là bắn phá các đồn công an dọc theo ven biển, dùng các hỏa tiễn bắn vào các doanh sự quân đội miền Bắc đồng thời bắt những cán bộ địa phương đưa vào Nam khai thác tin tức.
Tôi nhớ vào khỏang tháng 5 năm 1964, anh em chúng tôi được lệnh cấp trên cho biết thực tập liên toán Cumulus và Mercury để công phá nhà máy nước tại Bầu Tró, Ðồng Hới mục đích triệt hạ và làm tê liệt hệ thống cung cấp nước cho toàn tĩnh Ðồng Hới và các vùng phụ cận. Cả hai toán đã âm thầm thực tập trong vòng một tháng, có lúc cả liên toán và một đôi khi cũng thực tập riêng từng toán, tập di chuyển theo đội hình và đổ bộ ban đêm từ ngoài Chiến đỉnh PTF (Patrol Torpedo Fast) vào bờ bằng xuồng cao su (bobo) thực tập bắn các loại súng cá nhân Tiểu liên M-3 hoặc Suzuke của Thủy Ðiển, có cả súng đại bác 57 ly không giật và súng cối 61 ly thật tinh nhuệ, suốt trong thời gian dài thực tập rất công phu và tỉ mĩ, các cấp chỉ huy hỗn hợp luôn cố tìm các địa thế trong Nam tương giống với địa thế ở Bầu Tró Ðồng Hới để cho nhân viên dễ làm quen.
Hằng ngày chúng tôi thực tập bắn đại bác 57 ly không giật vào các mục tiêu không di động. Tôi, anh Hiền, và anh Quắc xạ thủ 57 ly còn anh Châu B, anh Hợp A và anh Hợp B phụ xạ thủ, và cả 2 anh khác phụ trách 61 ly không giật có bổn phận bắn trái sáng để anh em chúng tôi xác định mục tiêu (vì đã quá lâu nên tôi không còn nhớ tên 2 anh nầy) Trước ngày ra đi chúng tôi được tập dượt qua tất cả phận sự của từng người một lần cuối cùng, hôm đó có sự hiện diện đầy đủ các cấp chỉ huy cả 2 phía Mỹ & Việt và được sự thẩm định kết quả xem như hoàn hảo của cấp trên chấp thuận, liền ngay lúc đó chúng tôi được lệnh cấm trại 100% .
Vào buổi chiều cùng ngày tất cả nhân viên toán Cumulus chúng tôi, được mời về trại 3 họp chung với toán Mercury và được thiết đãi một buổi cơm thân mật với sự có mặt đầy đủ các cấp chỉ huy Mỹ & Việt và ban huấn luyện viên, trong lúc mọi người đang vui vẽ ăn uống chúng tôi vẫn được nghe thuyết trình đầy đủ về chuyến công tác phá hũy nhà máy nước Bầu Tró cho những ngày sắp tới, thuyết trình viên chỉ dẫn rất tỉ mĩ từng chi tiết, hướng dẫn cách thức xữ dụng và căn dặn những điều cần thiết, đồng thời cũng cho biết mật khẩu để nhận diện nhau khi bị thất lạc. Mật Khẩu "Hỏi ai ? trả lời khát nước" tất cả chúng tôi đều bắt buộc phải thuộc nằm lòng. Còn trường hợp súng 57 ly và cối 61 ly cũng như xuồng cao su (ho bo) nếu bị địch bao vây liệu thế không mang ra được phải nhanh nhẹn phá hủy tức khắc không được chần chờ.
Sau khi cơm nước vừa xong xuôi tất cả các cấp chỉ huy lớn nhỏ, tới trò chuyện thăm hỏi anh em chúng tôi hình như để khích lệ tinh thần lần cuối cùng, và không quên cầu chúc cho công tác sớm được thành công và gặt hái mọi thắng lợi. Trong lúc tôi đang cầm lon Beer đứng một góc quanh đó, thì từ đằng xa nghe đươc tiếng của anh Bảy gọi V. 12, và bảo lại đây với anh, tôi vội vàng đi tới và nhận thấy trên gương mặt của anh Bảy lúc ấy vương vấn một nét buồn, trông không được vui cho lắm anh đang nằm trên giường và nhìn xuống nói với tôi. Nè 12, không biết tại sao hôm nay tao thấy sốt ruột không yên, tôi an ủi anh và nói không sao đâu có lẽ mầy uống beer tối nầy hơi nhiều đó thôi, nhưng anh vội trả lời tao đã từng uống nhiều lần nhưng lần nầy tao thấy có vẻ hơi khác lạ. Nếu trong chuyến nầy có gì xãy ra chắc chắn vợ con tao sẽ khổ. Với thân tình bạn bè tôi lại trấn an anh một lần nữa, chuyện gì cũng có Chúa Mẹ quan phòng cả, mầy hãy xin phó thác cho các đấng, yên chí đừng có lo nghĩ vẫn vơ vui vẽ lên lấy sức khỏe cho chuyến này.
Tối hôm đó chúng tôi chia tay nhau, tất cả toán Cumulus trở về trại 4, phần có hơi thấm mệt bỡi chất men tôi lên giường ngũ một giấc cho đến sáng ngày hôm sau mới tĩnh dậy, buổi sáng hôm đó tất cả chúng tôi được nghĩ không phải đi thực tập, anh em mọi người ai lo công việc của người đó, lấy hết súng lớn súng nhỏ ra lau chùi cẩn thận đạn dược lắp vào băng sẵn sàng, kiểm soát tất cả các dụng cụ được đưa đi theo gồm có 3 khẩu đại bác 57 ly không giật, 1 khẩu súng cối 60 ly không giật cùng cấp số đạn nổ và đạn trái sáng cộng thêm vài ba trái lựu đạn lân tinh phá hũy súng lớn. Sau khi đã đầy đủ mấy ông huấn luyện viên và ban vũ khí lấy xe chở tất cả số vũ khí đó, và đưa xuống trước đặt trong các chiến đĩnh PTF, còn lại 3 chiếc xuồng cao su được chở đi theo 2 toán, tổng cộng tất cả là 22 người nhân viên có mặt buổi trưa hôm đó tại bến tàu. Nhân viên toán được trang bị loại Tiểu liên-3 và Tiểu liên Suzuke (Thủy Ðiển) với 7 băng đạn, mỗi băng lắp đầy 3 chục viên, trừ ra 3 người xạ thủ 57 ly chỉ mang Rulo và 5 viên đạn đã lắp sẵn,ngoài ra còn phải mang 3 trái đạn lân tinh để phá hũy súng khi trường hợp khẩn cấp.
Tôi nhớ lúc đó vào khoảng giữa tháng 6. 1964, lúc 8.30 chiều 4 chiếc Chiến đĩnh PTF (Patrol Topedofast) bắt đầu rời bến cảng Ðà Nẵng. Vượt trùng duơng trực chỉ hướng Ðông Bắc, như những con kình ngư rẽ sóng lướt nhanh tiến về hướng hải phận Quốc tế, và sau đó 4 chiến đĩnh bèn quay mũi về hướng Bắc Việt Nam, và tiến sâu vào bờ biển Ðồng Hới. Trong khi đó anh em chúng tôi đang nằm ngũ dưỡng sức, cũng có một số anh em leo lên khỏi hầm tàu vì chịu không nỗi mùi hôi của dầu, nói chung tất cả mọi người bấy giờ cùng đều mang một tâm tư băn khoăn và lo lắng từng phút từng giây, của chuyến công tác đầy táo bạo và cực kỳ nguy hiểm trong một vài giờ tới, có lẽ lần đầu tiên Biệt Hải xữ dụng loại súng cá nhân hạng nặng ra vuốt râu giặc Hồ.
Không ảnh vùng Ðồng Hới
Và rồi cũng không ai quả quyết hoặc đoán được những gì có thể xãy ra trong đêm nay cho chính bản thân mình, sự sống chết lúc này tựa như sợi chỉ treo mành thật mong manh. Lúc nầy tôi đang nằm ở dưới hầm tàu dù cảm thấy thấm mệt nhưng không tài nào chợp mặt được, bèn ngồi dậy đọc vài kinh phó thác vận mạng cho Chúa và Mẹ xin quan phòng và giữ gìn bản mạng con cũng như toàn thể bạn bè lần này. nghe một hồi chuông báo động vang lên, tiếp theo là ngọn đèn màu đỏ đầy ghê rợn được bật sáng. Báo hiệu giờ giấc sắp sửa thi hành, chúng tôi mọi người không ai bảo ai đều ngồi dậy một lúc và tất cả cùng làm một động tác đó là chụp vội lấy khẩu súng cá nhân, và kiểm soát tất cả các dụng cụ cần thiết để mang đi theo xữ dụng. 4 chiếc chiến đĩnh vẫn âm thầm tiến vào cửa biển của Ðồng Hới, khi đã xác định đúng mục tiêu, 2 chiếc ở lại phía ngoài để bảo vệ đồng thời yểm trợ cho 2 chiếc đang chở toán chạy vào sát gần bờ hơn.
Dưới ánh trăng lờ mờ hình dáng 2 Chiến Ðĩnh trông tựa như 2 con kình ngư đang từ từ giãm bớt tốc độ và rồi dừng lại, một lệnh được phát ra từ trên phòng lái của Hạm Trưởng tất cả chuẩn bị sẵn sàng đổ toán, chiếc PTF tôi đi anh em đã giúp phụ nhau, nhanh nhẹn cho thả xuống 2 xuồng cao su, đồng thời lúc đó tôi thấy Hạm Trưởng có đưa cho trưởng toán Yên một cái đèn pin hình dáng nhỏ như cây viết và căn dặn anh giữ lấy nó, khi nào gặp trở ngại cần được tiếp cứu cứ bấm đèn pin nầy lên tôi có thể nhận ra bạn và địch để giúp yễm trợ cho các anh. Tất cả anh em chúng tôi xuống, xuồng cao su vào lúc 11 giờ tối, dưới sự chỉ huy của Trưởng toán Yên, cả 3 chiếc xuồng cao su đồng nỗ máy cùng một lúc chạy theo hướng đội hình chữ V trực chỉ vào bờ, được khoảng 45 phút thì thấy ở phía trước và cả vùng chung quanh hơi xa xa chúng tôi có các thuyền đánh cá của dân, một vài chiếc thắp đèn số còn lại đều đã tắt, hình như mọi người trong ghe đều ngủ không nghe thấy tiếng động đậy.
Lúc ấy 3 chiếc xuồng cao su của chúng tôi đều được giãm bớt tốc độ để tránh gây ra tiếng động, mặt biển đêm nay thật phẵng lặng gió chỉ thổi nhẹ lất phất nên mấy chiếc xuồng (ho bo) lướt nhanh trên mặt nước không hề bị cản trở của các đợt sóng, bỗng tôi và một số anh em ngồi chung xuồng nghe được rõ ràng tiếng mõ đánh lóc cốc tựa như những tiếng báo động của địch từ hướng làng Phú Hội dội tới (làng này nằm ở phía Bắc cửa biễn Ðồng Hới) khi xuồng cao su hơi tiến gần vào bờ chúng tôi lại càng nghe được tiếng mõ đánh rõ hơn, tôi vội nói với trưởng toán hay là chúng đã thấy anh em mình rồi đó, 3 chiếc được lệnh tắt máy và dùng bằng dầm chèo tay khi đã vào gần tới bờ chúng tôi ngừng chèo và cố gắng quan sát, và tiếng mõ kia nghe mỗi lúc một xa dần.
Khi ước lượng
khoảng cách bờ còn 400 thước, thì 2 người tiền sát viên lội vào
trước đó là anh Chút và anh Lạt phụ trách kiểm soát bờ biển đồng thời
tìm chổ an toàn cho toán xâm nhập, lúc đó chiếc xuồng của tôi lại chèo trở
ngược ra hợp với 2 chiếc ở ngoài tất cả đều hướng mắt vào bờ để chờ sự báo
hiệu của 2 bạn bằng loại đèn hồng ngoại tuyến cầm tay, ngồi ngoài xuồng
lúc bấy giờ trưởng toán Yên cũng cầm hồng ngoại tuyến để theo dõi vào
trong bờ (vì mắt thường không thể thấy được) thời gian trôi qua thật hết
sức chậm chạp, mọi người ai nấy đều hồi hộp từng phút từng giây hầu như
bất động, để chờ tình hình của 2 bạn đang còn ở trong bờ cho biết kết quả
gần 20 chục phút trôi qua, chiếc hồng ngoại tuyến được chuyền tay hết
người nầy đến người khác nhưng chẳng thấy gì khác lạ.
Xuồng đổ bộ của Biệt Hải tại Bầu Tró
(Ðồng Hới, ngày 30 tháng 6 năm 1964)
Ông Yên vội lên tiếng hỏi vọng qua 2 chiếc xuồng cao su bên cạnh anh em có thấy gì lạ không? tinh thần mọi người rất căng thẳng vì thời gian chờ đợi đã lâu sợ có chuyện gì không may cho 2 người tiền sát. Bỗng ông Yên nhận được tín hiệu của 2 tiền sát trong bờ bấm đèn báo an toàn cho toán đổ bộ, lúc đó trưởng toán ra lệnh cả 3 chiếc xuồng phải chèo thật nhanh vào bờ, đồng thời phụ nhau khiêng xuồng cao su tới chổ cất dấu, và 5 người trong số 22 anh em được trang bị Tiểu liên M-3 & Suzuke bọc nòng giãm thanh ở lại đó canh giữ.
Còn tất cả 17 anh em với nhiệm vụ từng người mang 57 ly không giật, và 1 khẩu súng cối 61 ly cộng với cấp số đạn dược đầy đũ di chuyển thật nhanh đội hình hàng dọc theo hướng địa bàn của trưởng toán chỉ định, đi được khoãng 500 thước thì mọi người nghe được những tiếng lạch cạch (tựa như tiếng súng giảm thanh của Tiểu liên M-3) tôi kéo trưởng toán tới và nói nhỏ vào tai, hình như ở ngoài chổ dấu xuồng đã bị động, ông Yên vội cho toán dừng lại để lắng nghe và xác định, nhưng những tiếng hồi nãy bỗng nhiên đều tắt lặng luôn và không còn nghe nữa, thấy dừng lại hơi lâu vã lại thời giờ không cho phép tôi vội bấm trưởng toán, tiến hay lùi thì ông nên cho anh em biết, khi nghe tôi nói xong ông bỗng ra lệnh tiến tới mục tiêu, chúng tôi tất cả vừa đi vừa chạy trên vai vẫn vác khẩu 57 ly nhưng lúc đó hầu như tôi không còn cảm thấy nặng nề, thoạt một lúc đã tới bờ Bầu Tró và rẽ lối sang phía tay trái 50 thước cho sát gần mục tiêu hơn, và cùng lúc được lệnh đặt tất cả súng xuống khai hỏa, chúng tôi hành động như một cái máy bắn vào tới tấp, phần anh xạ thủ cối 61 ly thì nạp đạn trái sáng bắn lên không trung giúp cho anh em chúng tôi xác định mục tiêu. Thế là cả ba khẩu 57 ly không giật nhắm vào mục tiêu liên tiếp bắn tới, nhà máy nước Bầu Tró đã bị sập hoàn toàn, sau đó thấy một đám cháy và ngọn lữa được bốc cao soi sáng cả một vùng quanh đó.
Bắn xong chúng tôi được lệnh rút nhanh để kịp ra gặp tàu mẹ đúng 5 giờ sáng. Trong lúc đang chạy gần tới bờ biển tôi có gặp anh Bảy và anh chỉ tay bảo tôi theo hướng của anh, lúc bấy giờ trên vai tôi vẫn còn vác khẩu 57 ly không giật vì quá mệt và bây giờ lại cảm thấy nặng nề nên tôi chạy thẳng ra, còn anh bảy chạy ngược về hướng dưới cửa Ðồng Hới, khi chúng tôi chạy ra gần tới chổ dấu xuồng cao su (hobo) thì nghe tiếng chạm súng ở phía làng Phú hội (nghĩa là lúc đó toán canh gác xuồng cũng đang chạm địch). Anh em được lệnh của trưởng toán dàn hàng ngang chạy ra, vì ban đêm nên lính cộng sản không nhận ra chúng tôi và lên tiếng hỏi, bộ đội hay công an đó? Thế là anh em chúng tôi tha hồ bắn “ vì mật khẩu của toán hỏi ai? đáp khát nước”. Toán ở làng Phú Hội chạm súng trước, vì trong cửa Ðồng Hới đi ra xa gấp 2 lần từ trên làng Phú Hội đi xuống, ở làng Phú Hội có toán của anh Châu và anh Tín, nghe anh nói 7 băng đạn không còn một viên nào mang về, vì đám dân quân nhào ra quá đông chúng dùng bằng gậy gộc xông vào, có lúc anh Châu đã đánh cận chiến với chúng nên trên trán anh đã bị rách da, còn anh Lê Văn Chút và một số anh em đã bắn tới tấp yễm trợ cho số anh em còn lại rút ra. Riêng anh Hiển (râu) đã lấy được một khẩu CKC của tụi nó.
Phía dưới cửa biển Ðồng Hới thì thuộc toán của anh Bảy anh Sắc và một số bạn khác đang chống đỡ, tôi và các anh thuộc xạ thủ 57 ly nằm ở giữa lúc đó ở hai đầu đang bắn nhau dữ quá, cộng với tiếng la hét của dân quân và công an cộng sản nghe thật rùng rợn nhìn bên tay trái thấy Hiển và Quốc hai anh đang sữa soạn phá hũy súng 57 ly sẵn đó tôi cũng cho phá luôn. Sau khi thanh toán 3 khẩu 57 ly xong chúng tôi lại chạy tiếp tìm hướng ra bờ biển, thì nghe được tiếng của Bảy kêu tôi bằng ám số 12 tụi nó xông ra đông lắm, tôi quay lại nhìn thấy anh rất hùng tay kẹp khẩu tiểu liên M 3 xối xã bắn từng loạt vào đám cộng sản, riêng tôi không thể giúp gì cho anh được trong phút giây này vì xạ thủ 57 ly nên chỉ có độc nhất một khẩu rulo phòng thân mà thôi.
Thấy bên phía tay trái có một mô đất khá cao, tôi vội trườn người qua đó nghĩ xã hơi cho đỡ mệt, một lát sau lại thấy Châu B cùng tới, và bảo tôi cùng chạy anh Châu B còn khỏe chạy trước còn tôi cố gắng theo sau, trong lúc chạy chân tôi vấp phải một mô đất và té xuống, thì một loạt đạn bay xẹt ngang đầu hú hồn miệng lâm râm nói lời cám ơn Chúa, rồi lại lồm cồm đứng dậy tiếp tục chạy được khoảng độ 50 thước thì trông thấy một tên cộng sản bị thương khá nặng đang dãy dụa cố trườn đi, tôi liền rút khẩu rulo nhằm vào bóp cò, nhưng mấy lần súng không nỗ miệng lẩm bẫm chửi thề "à mẹ kiếp nó" liền sực nhớ ra, là hồi nãy vừa bị té sấp mặt xuống cát ngay lúc đó trên tay đang cầm khẩu rulo nên cát đã vào đầy cả nòng súng, bởi lẽ đó hèn gì súng không nổ, một số anh em đã ra được trước leo lên xuồng cao su và nổ máy, tôi ra sau một số anh em liền kéo lên tất cả 3 chiếc trực chỉ chạy về hướng các Chiến đĩnh PTF đang đậu (cũng xin được nói thêm ở đây chiến thuật xâm nhập của Biệt Hải, là đột kích chớp nhoáng và rút thật nhanh, chỉ trừ ra khi bị bất ngờ chạm địch thì mới phản ứng tự vệ mà thôi, lý do vùng hoạt động quá xa xôi không được sự yểm trợ của các đơn vị bạn, phần cơ cơ sở hậu cần của chính phủ VNCH không có ở miền Bắc, anh em các toán Biệt Hải đều biết được tất cả những điều kiện đơn phương khi thi hành công tác, nhưng vẫn chấp nhận, theo sự suy luận của anh em toán viên chúng tôi, mục đích là cốt tạo hoang mang cho dân chúng mất niềm tin vào cán bộ, và gây sự nghi ngờ lo lắng cho công an cộng sản).
Khi 3 chiếc xuồng cao su chở toán chạy ra được 15 phút thì có 2 chiếc tàu Hải thuyền của cộng sản chạy theo rượt đuổi chúng tôi xuất phát từ các hướng, ở làng Phú Hội và cửa biển Ðồng Hới. Anh em lấy ống nhòm quan sát thấy hình như trên tàu có trang bị đại liên. liền lúc đó trưởng toán Yên bảo tôi lấy cái đèn pin trước khi đi Hạm trưởng đã đưa cho ông để dùng khi khẩn cấp, tôi cầm đèn pin đứng trước mũi và nhắm hướng các PTF đang đậu bấm lên mấy lần, ở ngoài khơi các Hạm Trưởng và anh em Hải Tuần khi nhận được tín hiệu kêu cứu của chúng tôi và đồng thời theo dõi trên màn ảnh rada lập tức chạy vào và bắn đại bác 40 ly cũng như đại liên 20 ly nhắm thẳng tới các tàu hải thuyền của cộng sản, và sau đó thì không còn thấy các tàu của chúng chạy theo nữa.
Chiến đĩnh PTF (Patrol Torpedo Fast)
thuộc Lực Lượng Hải Tuần trên Biển Bắc
Tất cả anh em được vớt lên hai chiếc PTF, lúc đó trưởng toán Yên kiểm soát lại nhân viên thấy thiếu mất 2 người gồm có anh Nguyễn Bảy và anh Vũ Văn Sắc, mọi người đều cảm thấy đau buồn và thương tiếc, nhất là tôi đã mất đi một người bạn thân thương của thời thơ ấu, một đồng đội mà tôi hết sức mến yêu đó là anh Nguyễn Bảy, và rồi phút chốc làm cho tôi hồi nhớ lại những lời anh đã trăn trối trước một ngày ra đi.
“Riêng tôi mãi mãi xin được đốt nén hương lòng cho 2 bạn trong chuyến công tác Bầu tró, Ðồng Hới “
Trước khi 4 Chiến đĩnh PTF quay mũi chạy về hướng Nam Ðà nẵng, thì bất chợt 2 Hạm Trưởng, Nguyệt và Sơn cho tàu chạy sát gần bờ biển và bắn hàng loạt đạn 40 ly và súng cối 81 ly vào các đồn bót duyên phòng của chúng từ Phú Hội đến cửa Ðồng Hới, đã làm cho anh em toán hết sức phấn khởi như một cử chỉ trả thù cho 2 người bạn của chúng tôi đó là, Bảy và Sắc.
Xin được Vĩnh- Biệt các anh lần cuối, trên đường trở về lại miền Nam, vì quá mệt trong suốt đêm qua nên tôi ngũ thiếp đi lúc nào không hay, khi được các bạn đánh thức dậy thì các Chiến đĩnh PTF đã tới gần bến và các toán được di chuyển sang một chiếc Swift. Chúng tôi về trại tắm rữa thay quần áo xong được Sỹ quan trực dẫn lên phòng ăn sáng, tiếp theo đó lấy giấy phép xuất trại. qua mấy ngày sau anh em trở lại Trại và vẫn tiếp tục thi hành các sứ mạng như trước.
Một vài hôm sau được
nghe một số anh em cho biết có mở đài radio của cộng sản để theo dõi về
tin tức 2 bạn: Bảy, Sắc. Và tin tức của cộng sản cho biết thì anh Nguyễn
Bảy bị chết tại mặt trận, còn anh Vũ văn Sắc bị chúng bắt sống và
kết cho anh tội danh là gián điệp Biệt Kích phạm tội phá hoại, giết
người đồng thời lên án tử hình anh Vũ Văn Sắc trong cùng một
tuần.
V.12