MẶT
TRẬN BAN MÊ THUỘT
Phạm
Huấn
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú
Ngày 9 tháng 3, 1975.
Đó là một ngày Chúa Nhật. Sau
bốn ngày tại mặt trận B́nh Định, măi
tối mịt hôm trước chúng tôi mới về tới
Nha Trang. Và chúng tôi vừa chết hụt khi chiếc
trực thăng hầu như mất thăng bằng trong
những cơn lốc xoáy, lúc bay ngang qua Vũng Rô gần
Tuy Ḥa.
Khi chuông điện thoại reo lên, nh́n
đồng hồ mới 8 giờ sáng, mắt tôi cay xè và
thật khó chịu. Giọng nói quen thuộc của Tân,
một Sĩ quan Tùy viên khác ở Nha Trang, và cũng là em
vợ Tướng Phú vang lên từ đầu giây bên kia:
- Ông Tướng mời anh vào bay
gấp!
Ngừng lại một giây, Tân nói
tiếp:
- Nhưng ông ấy mới chuẩn
bị ăn sáng. Chừng 15 phút nữa anh ra thẳng phi
trường, tôi lái xe về cho. Ông Tướng bay C-47,
tầu bay đậu ở khu VIP bên dân sự!
Và Tân cúp máy.
Tôi linh cảm thấy một chuyện
ǵ quan trọng sắp sửa xảy ra. T́nh h́nh quân sự
tại chiến trương Cao nguyên sau khi Phước Long
mất thật nghiêm trọng. Các quốc lộ huyết
mạch 19, 21 nối liền Cao nguyên và Duyên hải đă
bị cắt nhiều đoạn. Tỉnh Quảng
Đức đang bị đe dọa nặng. Tại
mặt trận B́nh Định, các đơn vị của
Sư đoàn 22 Bộ binh gần như quần thảo
hàng ngày với Sư đoàn 3 Sao Vàng của Công Sản
Bắc Việt. Mặt trận Nam Pleiku, Bộ Tư
lệnh Hành quân của Sư đoàn 23 Bộ binh bị pháo
liên miên.
Nghe tiếng sóng biển, nh́n qua cửa
sổ của chiếc trailer, tôi thấy chân trời xa tít,
và nắng lên thật đẹp. Tôi bước ra ngoài.
Trước khi lái xe ra phi trường, tôi đă để
ra giây phút nh́n cái trailer nằm sát biển Nha Trang, v́ tự
nhiên linh cảm rằng sẽ chẳng bao giờ trở
lại đây nữa. Cái trailer, hay đúng hơn là nơi
nghỉ mát của một viên cố vấn Mỹ
trước kia, ông Tướng Tư lệnh phó
đặc trách b́nh định phát triển, ông Tỉnh
trưởng Khánh Ḥa đều muốn nhận làm của
riêng ḿnh. Nhưng Tướng Phú đă cho tôi
"mượn" dùng làm nơi tạm trú mỗi lần
ghé Nha Trang.
8 giờ 40 sáng, chiếc C-47 từ băi
đậu VIP phía dân sự phi trường Nha Trang tiến
ra phi đạo. Đây là chiếc máy bay chỉ huy của
Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu
trưởng Quân lực Việt Nam Cộng Hoài. Mỗi
năm cứ mùa mưa đến, ông cho biệt phái
chiếc Dakota 2 động cơ này lên cho Tư lệnh
Quân đoàn II sử dụng. Bởi v́ chiến
trương Quân khu II gồm 2 mặt trận cao nguyên và
duyên hải; thời tiết luôn xấu và sương mù.
Những khi khẩn cấp nếu sử dụng trực
thăng hoặc phi cơ nhỏ trên những chặng
đường dài Pleiku, Phan Thiết, B́nh Định
phải bay rất lâu và nguy hiểm.
Lúc phi cơ sắp sửa cất cánh,
Tướng Phú nói với tôi:
- Hôm nay ḿnh lên Ban Mê Thuột. Quận
Đức Lập, Quảng Đức hiện đang
bị pháo rất nặng, có thể bị mất ...
Và ông hỏi Hóa, Sĩ quan Tùy viên,
về cái lệnh mời Chuẩn tướng Lê Trung
Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh,
hiện là Tư lệnh mặt trận nam Pleiku, và
Đại tá Ngh́n, Tỉnh trưởng Quảng
Đức và Ban Mê Thuột họp sáng nay.
Nh́n vẻ mặt đăm chiêu, nghiêm
trọng của Tướng Phú, tôi biết rằng Ban Mê
Thuột sẽ vô cùng nguy ngập, nếu Đức
Lập và Quảng Đức mất.
Tháng trước trong một buổi
họp với Tư lệnh mặt trận nam Pleiku, sau khi
xếp đặt ưu tiên cho từng mặt trận,
Tướng Phú đă ra lệnh cho Đại tá Vũ
Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 Bộ binh
về Ban Mê Thuột chỉ huy, và tăng cường thêm
cho Ban Mê Thuột một đơn vị pháo binh 155 ly.
9 giờ 45 phút Tướng Phú tới
phi trường Phụng Dực.
Sau những cái bắt tay vội vă, ông
cùng với Chuẩn tướng Lê Trung Tường và
Đại tá Nguyễn Công Luật, Tỉnh trưởng
Ban Mê Thuột về Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23
Bộ binh.
Khi đoàn xe đi ngang qua dinh Tỉnh
trưởng, thấy một số sĩ quan mặc
đồ trắng đánh tennis, Tướng Phú tỏ
vẻ khó chịu, và ngay lập tức ra lệnh cấm
trại 100%. Tới Bộ Tư lệnh Sư đoàn, ông
hối hả bước vào Trung tâm Hành quân.
T́nh h́nh Đức Lập vô cùng nguy
ngập. Các đồn phụ đă bị
"bứt". Chi khu bị pháo từ 6 giờ sáng, và quân
chính qui Cộng sản Bắc Việt đánh "trận
địa chiến", và đánh ban ngày. Tiểu đoàn
Địa phương quân đóng tại Núi Lửa cách
Đức Lập 9 cây số bị địch tràn
ngập sau một trận đánh đẫm máu. Thiếu
tá Tiểu đoàn trưởng và một số cấp chỉ
huy khác bị Việt cộng sát hại.
Tương Phú bốc máy liên hợp và
liên lạc thẳng với Trung tá Nguyễn Cao Vực,
Quận trưởng quận Đức Lập. Ông
được báo cáo Trung tá Quận trưởng đă
bị thương, hiện ở ngoài chỉ huy và
điều khiển nhưng khẩu đại bác 105 ly
bắn trực xạ vào Cộng quân.
Đúng 10 giờ 30 phút sáng, quận
Đức Lập biến thành biển lửa. Từ 12
giờ trưa đến 5 giờ chiều ngày 9 tháng 3,
1975, Tướng Phú họp với Tư lệnh Sư
đoàn 23 Bộ binh, các Tiểu khu trưởng Ban Mê
Thuột và Quảng Đức để duyệt xét t́nh
h́nh các mặt trận.
Sau khi chấp nhận những
đề nghị của các giới chức liên hệ và
cho những chỉ thị cần thiết, ông ra lệnh
cho Đại tá Ngh́n, Tỉnh trưởng Quảng
Đức bay về trước. Tại Ban Mê Thuột,
để cho có sự thống nhất chỉ huy,
Tương Phú bổ nhiệm Đại tá Quang, Tư
lệnh phó Sư đoàn 23 làm Tư lệnh chiến
trường Ban Mê Thuột.
Các Tư lệnh mặt trận
phải ra lệnh đôn đốc các đơn vị
chuẩn bị và sẵn sàng chiến đấu trong 2, 3
tháng liên tiếp; tổ chức những cuộc hành quân xa
ngoài thị xă và vị trí pḥng thủ.
Kho xăng, kho đạn phải được
phân tán, đề pḥng đặc công Cộng sản
Bắc Việt đánh phá. Lệnh thiết quân luật
mỗi nơi được ủy nhiệm cho các Tư
lệnh mặt trận toàn quyền định
đoạt.
Hai quyết định quan trọng
khác của Tướng Phú:
1. Tư lệnh mặt trận Ban Mê
Thuột tùy theo t́nh h́nh, nếu cần cho phá hủy cầu
14 trên đường Quảng Dưc-Ban Mê Thuọt
để làm chậm sức tiến của chiến xa
địch.
2. Tư lệnh mặt trân Kontum
tăng phái một Liên đoàn Biệt động quân cho
mặt trận Ban Mê Thuột. Và Liên đoàn Biệt
động quân này phải được đổ
xuống Buôn Hô ngay chiều nay.
Sự có mặt của Tướng Phú
tại Ban Mê Thuột ngày hôm nay, 9 tháng 3, 1975 với
những quyết định có tính cách quan trọng và
cấp bách ông vừa ban hành là cái "bén nhậy"
của một tướng mặt trận, một vị
Tư lệnh có kinh nghiệm chiến trường.
Ông làm việc liên miên ngay từ khi
tới Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh. Khi
quyết định tăng phái cho Ban Mê Thuột một
Liên đoàn Biệt đông quân, vừa cầm dĩa cơm
trên tay, vừa gọi máy ra lệnh cho Tư lệnh
mặt trận Kontum cho các Tiểu đoàn Chiến
đấu của Liên đoàn Biệt động quân
được tăng phái, chuẩn bị di chuyển trong
2 giờ sắp tới.
Sau đó, ông cũng đích thân liên
lạc với Tướng Sang, Tư lệnh Sư đoàn
6 Không quân ở Pleiku, để vận dụng tất
cả trực thăng cho cuộc đổ quân
được hoàn tất thật nhanh. V́ thế,
đợt đổ quân đầu tiên của Liên đoàn
2 Biệt động quân xuống Buôn Hô đă
được thực hiện ngay chiều ngày 9 tháng 3,
1975.
6 giờ chiều ngày 9 tháng 3, 1975
rời Ban Mê Thuột, Tương Phú ra lệnh bay thẳng
lên Pleiku, thay v́ trở lại Nha Trang nghỉ dưỡng
sức. Và ngay buổi tối, ông vào làm việc, ở luông
trong chiếc "bunker", chiếc hầm nổi
chống pháo kích của Tư lệnh Quân đoàn c̣n đang
làm dở dang, sát với Trung tâm Hành quân. Lệnh cấm trại
100% được ban hành.
Từ lúc trở lại Pleiku,
Tướng Phú có vẻ bồn chồn lo nghĩ. Ông hút
thuốc lá liên miên. 9 giờ tối, khi được báo
cáo Liên đoàn 21 Biệt động quân tăng
cường cho mặt trận Ban Mê Thuột đă
được trực thăng bốc từ bắc Kontum
thả xuống Buôn Hô, Tướng Phú thở phào nhẹ
nhơm, và nói một ḿnh:
- May ra th́ ... c̣n kịp!
Rồi quay sang phía tôi:
- Này, "ông nhà báo", ḿnh làm một
tẩy mạt chược, khánh thành chiếc
"bunker" mới!
Tiếp đó, ông ra lệnh cho
Thiếu tá Hóa, Sĩ quan Tùy viên:
- Hóa! Chú mày điện thoại mời
Đại tá Tham mưu trưởng và gọi Vinh. Bảo
tụi nhỏ kiếm cái bàn vuông, bàn "dă chiến"
cũng được.
Hóa có vẻ ngần ngại:
- Hôm nay Thiếu tướng bay từ
sáng sớm, và giờ khuya rồi, tôi sợ Thiếu
tướng mệt.
- Ồ! ăn thua ǵ, hôm nay tôi muốn
thức khuya, chú mày đừng làm ta xui xẻo!
Hóa không nói thêm nữa, lẳng lặng
gọi điện thoại mời Đại tá Lư và
Thiếu tá Vinh, Chánh Văn pḥng Tư lệnh Quân đoàn.
Hóa là Sĩ quan Tùy viên của Tướng Phú từ hồi
c̣n ở Sư đoàn 1; người miền Trung, ít nói,
tính lầm ĺ và rất chịu khó làm việc.
Tướng Phú là người sống
b́nh dị, khắc khổ, không uống rượu, ăn
chơi. Cái thú duy nhất của ông là hút thuốc lá và
thỉnh thoảnh đưỢc xoa vài tẩy mạt
chược, "ăn thua" tượng trưng.
Đây là môn "thể thao" vừa giải trí, vừa đấu
trí! Canh mạt chược đêm 9 tháng 3, 1975 kéo dài
khoảng hai giờ đồng hồ.
Và đó cũng là lần cuối cùng
Tướng Phú được hưởng cái thú tiêu
khiển này. Ông bị thua, thua cả ... 3 người!
Gần 1 giờ sáng, Tướng Phú
gọi ra lệnh cho Đại tá Phạm Duy Tất, Tư
lệnh mặt trận bắc Kontum:
- Anh nhớ theo dơi "thằng con"
anh mới rời Kontum anh chiều nay. Bắt nó phải
"bung" ra hoạt động ngay. Ngày mai tôi sẽ ra
lệnh Đại tá Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23
mang bộ chỉ huy hành quân lên đó ...
- ...
- Tôi nghe nói "thằng cha Dậu"
là con gà chết. Nếu anh thấy hắn ta chỉ huy không
được th́ nên thay thế ngay. Đừng che
chở, kẻo hỏng việc hết!
- Tôi xin tuân lệnh Thiếu
tướng!
Đại tá Phạm Duy Tất, Tư
lệnh mặt trận bắc Kontum và cũng là chỉ huy
trưởng Lực lương Biệt động quân,
Quân khu II. Trung tá Dậu, Liên đoàn trưởng Liên
đoàn 21 Biệt động quân vừa được
thả xuống Buôn Hô, đông bắc Ban Mê Thuột, và
mới nắm quyền chỉ huy Liên đoàn Biệt
động quân hơn 1 tháng nay!
30 ngày
trước khi Cộng quân tấn công Ban Mê Thuột, khi
chưa bị rối loạn, chưa ban hành quyết
định rút Cao nguyên, bỏ Huế; Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu đă đi khắp 4 Vùng Chiến
thuật để ăn tất niên ngoài tiền tuyến
với binh sĩ. Tại mặt trận bắc Kontum, vùng
biên giới Lào-Việt, Tướng Phạm Văn Phú,
Tư lệnh Chiến trường Cao nguyên, hướng
dẫn Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa tới
thăm một đơn vị Biệt động quân trên
tuyến đầu.
"Người Lính Kèn"
của Trường Vơ Bị Đà Lạt
10 giờ 30
phút sáng ngày 9 tháng 3, 1975, quận Đức Lập tỉnh
Quảng Đức biến thành biển lửa.
Trước đó, hai viên đại bác 82 ly không giật
của Bắc quân bắn trúng đài chỉ huy chi khu.
Đài chỉ huy sập. Người
Sĩ quan An ninh tử trận tại chỗ. Trung tá
Nguyễn Cao Vực, Quận trưởng bị
thương, nhúng đầu vào lu nước, thoát ra ngoài.
Ông Quận trưởng đích thân chỉ huy và
điều khiển hai khẩu đại bác 105 ly, bắn
trực xạ, ngăn chận những đợt xung phong
biển người của quân Cộng sản Bắc
Việt.
Bốn ngày trước, 5 tháng 3, 1975
một cuộc phục kích tại phía đông Buôn Dak Gang
cách bắc Đức Lập 10 cây số. Lực
lượng chi khu đă bắt được một tù binh
thuộc Sư đoàn F10 Cộng sản Bắc Việt, và
tài liệu tiết lộ Bắc quân sẽ đại
tấn công Quảng Đức và Ban Mê Thuột, mở
đầu chiến dịch Tây Nguyên 1975. Nhưng nguồn
tin này, cũng như nguồn tin t́nh báo tương tự
của tiểu khu Ban Mê Thuột, khi khai thác một sĩ quan
tù binh Cộng sản Bắc Việt trong toán tiền thám
của Sư đoàn 320 Điện Biên Phủ tại
Bắc Ban Mê Thuột (tù binh Bắc Việt bị bắt
ngày 7 tháng 3, 1975), đă không được Bộ Tư
Lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh và Quân đoàn II
"xếp hạng" là những nguồn tin quan
trọng.
Hôm nay Sư đoàn F10 Cộng sản
Bắc Việt nhất định san bằng quận
Đức Lập để tiến quân về Ban Mê
Thuột. Các công sự pḥng thủ trên mặt đất
sập hết, nhưng Quận trưởng Nguyễn Cao
Vực và các chiến hữu của ḿnh vẫn cầm
cự chiến đấu dai dẳng ở các giao thông hào.
Nguyễn Cao Vực, người
"pháo thủ" của các chiến trưỜng
Chiến khu D 1960, Bu Prang 1968, Kontum 1972, cũng lính là "anh
lính kèn người Thượng" với cái tên "Cai
Son" của sinh viên sĩ quan khóa 13 trường Vơ
Bị Đà Lạt. Hạ sĩ Son, anh lính kèn là
người đă mang đến cho các sinh viên sĩ quan
những giây phút vui buồn đáng nhớ mỗi ngày.
Từ điệu kèn báo thức, tập hợp đi
ăn, cũng như mặc đồ trận, đeo ba lô
buổi tối tŕnh diện dă chiến khi bị phạt
... Nguyễn Cao Vực là người có sắc diện
như một cái cột nhà cháy, nên được bạn
bè đặt cho cái tên là "Cai Son". Và anh rất thích
cái tên đó.
Tôi có khá nhiều kỷ niệm với
Vực, v́ cùng một trung đội trong hai năm học
tại trường. Đầu năm 1960, khi tôi
hướng dẫn Dickey Chapel - người nữ Phóng viên
kỳ tài của thế giới, đă từng nhảy dù
theo một lực lượng Mỹ xuống Okinawa trong
trận Thế chiến II - đi hành quân tại chiến
khu D, với một đơn vị nổi danh của Quân
đội Việt Nam Cộng Ḥa thời đó là Trung
đoàn 8 thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh, th́ Vực là
Pháo đội trưởng Pháo đội 105 ly, tăng
cường cho đơn vị này.
Thiếu tá Nguyễn Văn Tư, Trung
đoàn trưởng đă giới thiệu với chúng tôi
hai quân nhân thiện chiến và "ch́" nhất của
Trung đoàn. Đó là Trung úy Bác sĩ Lê Đ́nh Kỳ và Pháo
đội trưởng Nguyễn Cao Vực. Bác sĩ
Kỳ là ngươi không thích hành nghề chuyên môn mà chỉ
thích truyện trận mạc. C̣n Vực được
mệnh danh là một Pháo đội trưởng ĺ
lợm, thiện xạ, bắn đâu trúng đó.
Một tuần lễ đi hành quân
với Trung đoàn 8 Bộ binh trong Chiên khu D, Dickey Chapel và
tôi thương ăn và ngủ chung với Bộ Chỉ
huy của Trung đoàn, gồm Thiếu tá Tư, Bác sĩ
Kỳ, Trung úy Vực, và Hiền. Hiền là Sĩ quan Hành
quân của Trung đoàn và cũng tốt nghiệp khóa 13 Vơ
bị Đà Lạt.
Trong sáu người chúng tôi, lần
lượt Đại úy Hiền, Đại tá Tư
đều tử trận. Họ đă hy sinh tại vùng
đất và đơn vị mà họ đă chiến
đấu, phục vụ nhiều năm. Dickey Chapel,
người mà tôi kính trọng như một người
chị trong nghề phóng viên chiến tranh, cũng vĩnh
viễn ở lại Việt Nam trên "dăy phố buồn
thiu" ngoài chiến trương miền Trung.
Hôm nay đến lượt Nguyễn
Cao Vực. Anh là một Quận trưởng bất
đắc dĩ. Anh đă bị thả xuống
Đức Lập, và trở thành Quận trưởng dù
muốn hay không, giữa năm Mùa Hè Đỏ Lửa 1972.
Và có thể đây là trận chót trong
đời binh nghiệp người pháo thủ tài ba
của Sư đoàn 5 Bộ binh, của chiến
trường Cao nguyên, đă lại có dịp thi thố cái
khả năng chuyên môn của ḿnh. Hai khẩu đại
bác 105 ly bắn trực xạ vào các đơn vị
tiền phong Sư đoàn F10 Cộng sản Bắc Việt
chắc chắn đă có một sự đánh đổi
cân xứng trước khi và các chiến hữu của ḿnh
vùi ngập trong biển lửa.
Tôi tự hỏi, nếu Vực không
thoát được trong trận này, c̣n lại Bác sĩ Lê
Đ́nh Kỳ và tôi, ai sẽ là người sống sót sau
cùng, sau 20 năm chiến tranh dài của một đời
người?
Ngày 10 tháng 3, 1975
Những trận mưa pháo vào Ban Mê
Thuột từ 2 giờ đến 4 giờ sáng rạng
ngày 10 tháng 3, 1975 đă gây kinh hoàng cho mấy chục ngàn quân
cũng như dân, hiện đang có mặt tại thị
xă này.
Sau đó là những chiến xa
đủ loại, băng rừng, nghiền nát các ngả
đường, để các lực lượng của
những Sư đoàn 320, 316 Cộng sản Bắc
Việt ào ạt tiến vào.
Nhưng, những người kinh hoàng
và đau đớn nhất là hai cấp chỉ huy có trách
nhiệm pḥng thủ Ban Mê Thuột: Đại tá Vũ
Thế Quang và Đại tá Vũ Công Luật!
Đại tá Luật, Tỉnh
trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Ban Mê Thuột là
một Sĩ quan Thiết giáp kỳ cựu của Quân
lực Viêtn Nam Công Ḥa. Lữ đoàn trưởng Lữ
đoàn I Thiết kỵ trong cuộc hành quân sang Lào 1971, người
mà báo chí Việt Nam và ngoại quốc gọi là "Patton
Việt Nam". Patton là danh tướng Thiết giáp
của Mỹ trong Thế Chiến II. Đại tá Luật
đă từng chỉ huy một Lực lượng
Thiết giáp quan trọng và tối tân nhất của Quân
lực Việt Nam Cộng Ḥa, với những Thiết
đoàn M48, M41 chiến xa trong cuộc tiến quân này.
Đêm nay Bắc quân đánh trận
địa chiến vơi chiến xa nặng, với
chiến thuật biển người, th́ trong tay ông
vỏn vẹn có được hai Chi đội Thiết
vận xa M113 và những xe bọc sắt tuần tiễu
của Địa phương quân. Một thứ
"đồ chơi con nít" nếu so sánh với
loại Thiết giáp tối tân T54 của Nga Sô mà Cộng
sản Bắc Việt hiện đang sử dụng!
Đại tá Vũ Thế Quang, Tư
lệnh phó Sư đoàn 23 Bộ binh và Tư lệnh
mặt trận Ban Mê Thuột khi nghe những tiếng
đạn bay xé không gian, nổ tại phi trường L19,
trước tiểu khu, bộ Tư lệnh Sư đoàn,
đă thấy ngay cái giá mà lực lương pḥng thủ
phải trả. Bởi v́ những khẩu đại bác
122 ly, 130 ly của Bắc quân đă kéo sát tới thị xă!
Những tiếng đại pháo
của địch nổ tại Ban Mê Thuột cũng
đă làm cho các tướng lănh nắm vận mạng
Đất Nước bừng tỉnh. Họ tạm quên
đi những hận thù, những tranh giành quyền
hạn, phe phái. Tất cả đều hướng
về mặt trận này!
Lệnh của Đại tướng
Cao Văn Viên từ Bộ Tổng Tham Mưu Quân lực
Viêt Nam Cộng Ḥa được truyền đi lúc 7
giờ sáng. Của Tướng Trần Thiện Khiêm,
Thủ tướng Chính phủ gọi từ Đà Lạt
lúc 8 giờ 40 phút. Của Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu gọi từ Dinh Độc Lập lúc 10 giờ
10 phút, và 19 giờ tối.
Trận đánh quyết định
giữa hai miền Nam-Bắc đă xảy ra. Nhưng
lực lượng giữa hai bên quá ư chênh lệch,
như trứng chọi với đá nếu so sánh cả
về quân số, vũ khí, chiến cụ. Địch
đă ở thế thượng phong ngay từ lúc
đầu!
Tuy nhiên, trong ngày đầu tinh thần
chiến đấu của các dũng sĩ Trung đoàn 53
Bộ binh, sự gan dạ của những phi công anh hùng
A37, của những chiến sĩ Địa phương
quân tiểu khu Darlac, đă làm cho Bắc quân kinh ngạc,
nể v́. Những tin tức phấn khởi bay đi
khắp nước ngay khi "những cánh đại
bàng" xuất hiện trên vùng trời Ban Mê Thuột.
Phi tuần phản lực A37
đầu tiên đă bắn cháy hai chiến xa, và hai cỗ
đại bác pḥng không của Cộng sản Bắc
Việt ngay trong thị xă lúc 11 giờ 30 phút. Hai chiến xa
khác cũng do không quân đánh bom trúng tại 2 cây số tây
bắc Ban Mê Thuột. Lực lương Địa
phương quân Darlac đă tạo một bất ngờ
lúc 11 giờ trưa khi bắn cháy một T54 trước
bộ Chỉ huy Tiểu khu ngay trên đường
Thống Nhất!
Trận "thử sức" của
các trung đoàn tiền phong quân chính quy thuộc Sư
đoàn 320 Điện Biên Phủ và những "dũng
sĩ" Trung đoàn 53 Bộ binh trên pḥng tuyến quanh phi
trường Phụng Dực xảy ra lúc 14 giờ.
Mở đầu là những trận
mưa pháo, cầy nát sân bay. Từng đoàn chiến xa
của Bắc quân gầm thét, di chuyển theo đội
h́nh từ khắp ngả tiến vào.
Nhưng tinh thần các chiến sĩ
ta không hề nao núng. Đây cũng không phải là
"trận thư hùng" đầu tiên của các
đơn vị tinh nhuệ của ta và địch.
Bởi v́ trước khi rút về pḥng
thủ phi trường Phung Dực, Trung đoàn 53 tăng
phái cho mặt trận Quảng Đức đă
đụng độ với các trung đoàn chủ lực
của Sư đoàn F10 rất nhiều lần trong
những tháng trước, và mấy ngày mới đây
với Sư đoàn 320 của Cộng sản Bắc
Việt tại Đông Bắc Ban Mê Thuột.
Sau gần 2 giờ quần thảo,
Trung đoàn 53 Bộ binh đă đẩy lui 3 đợt
xung phong biển người của địch. 15 giờ
30, Bắc quân chém vè, để lại trên 200 xác và 50 vũ
khí đủ loại, 4 chiến xa Cộng sản Bắc Việt
bị bắn cháy.
Báo cáo chiến thắng về Trung tâm
Hành quân Quân đoàn II bằng hệ thống điện
thoại viễn liên từ phi trường Phụng
Dực, "người lính số 1" của Trung
đoàn 53 Bộ binh, một trong những anh hùng của
mặt trận Ban Mê Thuột, Trung tá Vơ Ân, Trung đoàn
trưởng nói với Tướng Phú:
- Tŕnh "Mặt Trời",
những "đứa con" của tôi sứt mẻ
chút ít, nhưng tinh thần rất cao.Trận đánh vừa
kết thúc. Hơn 200 xác Việt cộng c̣n để nguyên
ngoài chiến trường. Vũ khí tịch thu tôi đă cho
kéo về pḥng danh dự của phi cảng để
"triển lảm"! Trong đó có cả 3 đại
bác pḥng không và 4 hỏa tiễn SA7 c̣n mới nguyên.
Tướng Phú vui mưng lộ trên nét
mặt. Ông khen ngợi và ra lệnh cho Ân bằng một
giọng hết sức thân mật:
- "Chú mày" giỏi lắm!
Chuyển lời khen của tôi đến anh em. Ráng lên! Sau
trận này mỗi người lên một cấp. Nhưng
không được khinh thường địch quân!
Phải chuẩn bị và đề pḥng tối đa ngay!
Rơ chưa?
- Tŕnh "Mặt Trời", tôi
nhận rơ!
Tướng Phú cúp máy. Trung tá Vơ Ân
trở ra chiến hào pḥng thủ cùng với các chiến
hữu của ḿnh.
Tuy nhiên chiến thắng trên đây
chỉ là một may mắn đặc biệt, một
chiến thắng sau cùng của Trung đoàn 5e Bộ binh
trong trận đánh quyết định giữa hai miên
Nam-Bắc năm 1975.
Ngày 10 tháng 3, 1975 là một ngày cực
kỳ sôi động trên chiến trương Cao nguyên.
Trong lịch sử 30 năm chiến tranh Việt Nam kể
từ hồi c̣n quân đội Pháp, chưa bao giờ có
những trận đánh đồng loạt, dồn
dập như vậy.
Ngoài mặt trận chính Ban Mê Thuột,
Cộng quân tấn công khắp nơi. Các trận bắc
Kontum, nam Pleiku, bắc B́nh Định, Quảng Đức
và trên 2 quốc lộ 19, 21 đều bị áp lực
nặng nề.
Tiểu khu Ban Mê Thuột bị mất
liên lạc lúc 12 giờ trưa. Những đoàn xe chở
quân của Bắc Việt vẫn tiếp tục tiến
về Ban Mê Thuột. Lệnh phá cầu 14 trên quốc
lộ nối liền Quảng Dức-Ban Mê Thuột
được ban hành. Những trận pháo kích,
đụng độ nặng nề quanh Căn cứ 93
phía nam Pleiku kéo dài suốt ngày.
15 giờ 15 phú, phi trường Cù Hanh,
Pleiku bị pháo. Một trực thăng và một dăy nhà
bị cháy, một Dakota bị hư hại.
18 giờ 20 phút, Cộng quân pháo trúng
Bộ Tư lệnh Quân đoàn, khu câu lạc bộ sĩ
quan và Bộ Chỉ huy Không trợ II. Thị xă Pleiku
thiết quân luật 9 giờ tối.
Tại mặt trận B́nh Định,
Trung đoàn 42 và 47 giao tranh suốt ngày với các đơn
vị Cộng sản Bắc Việt và hạ 200 tên
tại thung lũng Vĩnh Thạnh. Sư đoàn 22 Bộ
binh hiện đă trực diện với Sư đoàn 3 Sao
Vàng, các trung đoàn biệt lập của Bắc Việt
tại Quân khu 5.
Một tin chấn động khác, 17
chiến xa Cộng sản Bắc Việt xuất hiện
gần Phù Cát, B́nh Định lúc 5 giờ 30 chiều.
Tổng kết tại mặt trận
Ban Mê Thuột trong ngày đầu cùng với chiến
thắng của Trung đoàn 53 Bộ binh, thêm 100 Cộng
quân khác bị hạ trước tiểu khu, trước
khi tiểu khu Darlac bị mất liên lạc, và
trước dinh Tỉnh trưởng, gần sát với
Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh. 12 chiến
xa Cộng sản Bắc Việt bị bắn cháy, trong
số đó có 11 cái do Không quân đánh bom trúng.
Những lệnh cuối cùng trong ngày
Tướng Phú chỉ thị cho Tướng Lê Trung
Tường, Tư lệnh mặt trận nam Pleiku và
Tỉnh trưởng không được lùi khỏi Căn
cứ 93 trên tuyến pḥng thủ Bộ Tư lệnh Quân
đoàn và thị xă này. Liên Đoàn 21 Biệt động
quân đă từ Buôn Hô di chuyển về gần tới Ban
Mê Thuột bằng mọi giá phải tái chiếm bộ
chỉ huy tiểu khu và kho đạn Ban Mê Thuột.
19 giờ tối, Tổng Thống
Thiệu từ Saigon gọi lên chỉ thị cho Tư
lệnh Quân đoàn II giải quyết chiến
trường Ban Mê Thuột mau lẹ (?)
Giây Phút Cuối Cùng của Tư
Lệnh Mặt Trận Ban Mê Thuột
Ngày 11 tháng 3, 1975.
Trận đánh đẫm máu thư 2
giữa Trung đoàn 53 Bộ binh và một lực
lương quân chính qui Cộng sản Bắc Việt
đă được tăng cường đông hơn
gấp 10 lần, xảy ra lúc 5 giờ sáng. Đó cũng là
lần xuất trận đầu tiên của Sư đoàn
316, sư đoàn tổng trừ bị của Bắc
Việt tại mặt trận phi trường Phụng Dực
trên chiến trường Cao nguyên.
Sư đoàn 316 tổng trừ bị
Cộng sản Bắc Việt vừa di chuyển từ
miền Bắc vào, và mới tới trận địa
hồi đêm. Những báo cáo tiên khởi trong 2 giờ
đầu cho biết Trung đoàn 53 Bộ binh bị
thiệt hại quá nặng.
7 giờ 45 phút sáng, đích thân Tư
lệng mặt trận Ban Mê Thuọt, Đại tá Vũ
Thế Quang gọi lên Trung tâm Hành quân Quân đoàn II cho
biết t́nh h́nh vô cùng nguy ngập. 10 chiến xa Cộng
sản Bắc Việt đang bắn trực xạ vào
Bộ Tư lệnh Sư đoàn.
Người sử dụng máy siêu
tần số lúc đó là Trung tá Không quân Nguyễn Văn
Giang, Giám đốc Không trợ II. Bằng những
ngụy thoại, ông cho biết đoàn phản lực
cơ cất cánh từ Nha Trang đang trên đường,
và sắp tới vùng trời Ban Mê Thuột.
7 giờ 55 phút, hai chiếc phản
lực cơ A37 lao xuống mục tiêu, những chiến
xa Cộng sản Bắc Việt, và đánh vô cùng chính xác.
Nhưng chỉ mấy phút sau, bỗng nghe Đại tá
Quang hét lên trong máy truyền tin:
- Ơ!... "nó" đánh trúng tôi!!!
8 giờ. Đó là giờ phút của
"định mệnh". Hai trái bom đă thả trúng
hầm Chỉ huy và Truyền tin của Tư lệnh
mặt trận Ban Mê Thuột. Và Trung tâm Hành quân Quân đoàn
II mất liên lạc với Ban Mê Thuột từ lúc đó.
Nghe câu nói sau cùng của Quang, tự
nhiên tôi thấy đau ḷng và đưa mắt nh́n Giang.
Quang, Giang và tôi đều là bạn.
Quang với biệt danh "Quang
dù", là người lính của chiến trường và
thành phố trong 2 thập niên 1955-1975. Trước năm
1960 khi chiến tranh c̣n ở cấp tiểu đoàn,
một số sĩ quan trong các binh chủng Không quân, Nhảy
Dù rất nổi tiếng trong cả hai lănh vực: ăn
chơi và đánh giặc. Tên tuổi họ trở thành
những nhân vật trong tiểu thuyết, các phóng sự
với những biệt danh riêng. Chẳng hạn như:
Cương "khểnh", Hợi "voi", Quang
"dù", Hùng "sùi", Giang "nám" ...
Thơi gian ở Nhảy Dù, Quang là
một Tiểu đoàn trưởng trung b́nh, nhưng là
người có một "nghệ thuật sống"
siêu đẳng. Anh luôn luôn tự chế và thích nghi với
mọi hoàn cảnh. Cuối năm 1963, Tiểu đoàn 6
Nhảy Dù đang được tái huấn luyện
tại Trung tâm Vạn Kiếp, mới được
tạm thơi giữ chức vụ Tiểu đoàn
trưởng, anh đă liều lĩnh mang tiểu đoàn
về Saigon tham gia đảo chánh. Nhưng công trạng
của anh chỉ được biết đến khi
Tướng Nguyễn Cao Kỳ được bổ
nhiệm làm Tư lệnh Không quân.
Rồi sau đó, khi trở thành Thủ
tướng, ông Kỳ đă đề cử Quang chỉ
huy Liên đoàn An ninh Danh dự. Đường hoạn
lộ chim bay từ đó!
Nhưng phải nói anh là người
đàng hoàng, trung trực. Khi ông Kỳ bị ông Thiệu
hất cẳng, cho "ngồi chơi sơi
nước", một bất ngờ, anh được
ông Thiệu cho đi làm Thị trưởng Cam Ranh. Anh vào
Tân Sơn Nhất hỏi ư kiến ông Kỳ. Không may cho anh,
trong một canh mạt chược dở dang, ông Kỳ
rất thờ ơ lạnh lùng. V́ vậy, anh thất
vọng bỏ đi. Từ đó, anh trở lại
cương vị của một người quân nhân
"nhà nghề". Tuy nhiên, bạn bè vẫn nghi ngờ và
chế diễu anh là một "petit ... Lên Nguyên Khang"
(!) Mỗi khi có chiến thắng Việt Cộng, tay
phải cầm khẩu AK47 tặng Trung tướng
Thiệu, tay trái trao khẩu CKC cho Thiếu tướng
Kỳ. Cũng như Trung tướng Khang, luôn luôn đu
giây giữa "cánh phải và cánh trái" dinh Độc
Lập với câu nói đầu môi: "ông Kỳ là
bạn, ông Thiệu là thày, tôi chỉ biết phục
vụ cho quyền lợi của Tổ quốc và Quân đội"!!!
Sau khi rời chức vụ Thị
trưởng Cam Ranh vơi thâm niên cấp bậc, Quang
được bổ nhiệm làm Tư lệnh Phó Sư
đoàn 23 Bộ binh.
Chiều ngày 9 tháng 3, 1975 , Tướng
Phú rất khó khăn và cân nhắc măi mới chọn
lựa anh làm Tư lệnh chiến trường Ban Mê
Thuột, v́ Đại tá Luật, Tỉnh trưởng kiêm
Tiểu khu trưởng Darlac chức vụ nhỏ hơn,
nhưng trận mạc và cấp bậc thâm niên hơn.
Tôi nhớ khi rời phi trường
Phụng Dực, Tương Phú bắt tay Quang và nói:
- Cố gắng và ráng cẩn thận
nghe Quang! Đừng để lỡ dịp lên
tướng kỳ này. Ḿnh ... Nhảy Dù mà !
Quang đứng nghiêm chào Tướng
Phú:
- Thiếu Tướng yên tâm, tôi sẽ
làm tất cả những ǵ có thể làm được. Và
tôi sẽ chết tại đây trước khi Ban Mê
Thuột mất!
Sau khi Trung tâm Hành quân, hầm Chỉ huy
và Truyền tin của Tư lệnh Chiến trường
bị sập, mọi người đều lo lắng cho
số phận Ban Mê Thuọt.
Đại tá Tham mưu trưởng
Quân đoàn được lệnh thành lập bộ
Chỉ huy Hành quân trên không để chỉ huy mặt
trận Ban Mê Thuột. Cả hai chiếc C47 và U17 của
Tư lệnh Quân đoàn đều được sử
dụng. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Hành quân
nhẹ cũng được thành lập gấp rút ở
Buôn Hô.
11 giờ 50 phút, sau gần 4 giờ
chờ đợi, Trung tâm Hành quân Quân đoàn II ghi nhận
mất liên lạc hoàn toàn với Tư lệnh chiến
trường Ban Mê Thuột và Đại tá Tỉnh
trưởng kiêm Tiểu khu trưởng tiểu khu Darlac.
15 giơ 30, Đại tướng Cao
Văn Viên gọi cho Tướng Phú gay gắt ra lệnh
"bốc" Chuẩn tướng Lê Trung Tường,
Tư lệnh Sư đoàn 23 từ mặt trận nam
Pleiku thả xuống Ban Mê Thuột chỉ huy.
17 giờ và 23 giờ đêm, những
lệnh của Tổng Thống Thiệu và Thủ
tướng Chính phủ Trần Thiện Khiêm:
- Linh động trong mọi
trường hợp. Cẩn thận không nên dồn hết
quân trong mặt trận này.
- Tư lệnh Quân đoàn toàn quyền
quyết định, có thể bỏ Ban Mê Thuột. Tránh sa
lầy, v́ có thể c̣n hai, ba mặt trận lớn nữa
tại Quân khu II.
- Tường tŕnh chính xác các sư
đoàn Cộng sản Bắc Việt hiện tham chiến
trên trận địa Ban Mê Thuột.
- Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột
coi như đă mất tích. Chấp thuận thả một
Tỉnh trưởng khác xuống chỉ huy nơi có dân và
quân tập trung nhiều. Lập ṭa Hành chánh và bộ
Chỉ huy tiểu khu Ban Mê Thuột lưu động.
Giây phút cuối cùng của Tư
lệnh chiến trường Ban Mê Thuột sau này
được ghi nhận với những dữ kiện
đặc biệt. Buổi sáng khi 2 trái bom 500 cân Anh của
Không quân đánh sập một đầu hầm Trung tâm
Hành quân của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ
binh, một số sĩ quan trong bộ tham mưu đă
thoát lên được. Trên một thiết vận xa M113,
Đại tá Vũ Thế Quang sử dụng máy truyền
tin liên lạc với chiếc máy bay chỉ huy, cho lệnh
các phản lực cơ trút bom xuống bộ Tư
lệnh Sư đoàn hiện đang bị địch quân
tràn ngập. Và cho biết sẽ rút về phía Trung đoàn
53 Bộ binh tại phi trường Phụng Dực
để tiếp tục chỉ huy.
Đại tá Nguyễn Công Luật cùng
với Phó Tỉnh trương Hành chánh Nguyễn Ngọc
Vỵ đi theo một hướng khác. Nhưng chỉ
một thời gian ngắn sau, chiếc thiết vận xa
chỉ huy bị bắn cháy, Đại tá Quanh thoát chết
trong gang tấc. Cộng quân lúc này đầy khắp các
ngả đường trong thành phố cùng với
những đoàn xe tăng của chúng.
Cũng thời gian này, trên Quốc
lộ 14, khoảng đường tư Đức
Lập về Ban Mê Thuột, bộ Chỉ huy Hành quân nhẹ
của Trung đoàn 53 Bộ binh cùng với một tiểu
đoàn, được lệnh rút từ vùng hành quân phía
đông bắc quận Đức Lập về tiếp
cứu Ban Mê Thuột, cũng bị Việt cộng
phục kích chận đánh. Trung tá Trung đoàn Phó Trung
đoàn 53 và hầu hết các sĩ quan đều bị
tử trận hoặc bị địch bắt. Cánh quân
này coi như bị tan ră trước khi tới
được trận địa Ban Mê Thuột.
Đến xế trưa ngày 11 tháng 3,
bên cạnh Đại tá Quang chỉ c̣n có người
Thiếu úy, Sĩ quan Tùy viên và một người lính. Không
thể đi tới được phi trường
Phụng Dực và cũng không c̣n phương tiện
truyền tin để liên lạc, ba người đă
ẩn tránh trong một vườn cà phê mấy tiếng
đồng hồ, đợi đêm tối nhắm
hướng nam đi về phía Quảng Đức.
2 giờ sáng ngày 12 tháng 3, đi
được khoảng 6 cây số đưỜng
rừng ngay khi vưa tới sát một làng Thương, th́
bị Việt cộng nổ súng, xông ra vây bắt. Thấy
Đại tá Quang vẫn c̣n mang cấp bậc trên cổ áo
và xưng danh là Tư lệnh Phó Sư đoàn 23 Bộ binh,
chúng đă trói lại, lột giầy và liệng xuống
hố. Chừng một giờ sau, chúng được
lệnh dẫn Đại tá Quang đi suốt đêm. Tới
chiều hôm sau, ngày 13 tháng 3, được cởi trói, cho
đi giầy vào và chở đi bằng xe Molotova sang Cam
Bốt để khai thác. Vùng rừng núi này, chắc
chắn là nơi đặt bản doanh bộ Tư
lệnh chiến trường Tây nguyên 1975 của 2
Tướng Cộng sản Bắc Việt Văn Tiến
Dũng và Hoàng Minh Thảo.
Trong suốt thời gian bị
điều tra, Đại tá Quang bị Việt cộng
khủng bố tinh thần, cùm giữ hai chân trong hai thân cây
lớn được khoét lỗ sẵn. Đó có thể
cũng là kết quả đưa đến những
lời cung khai của Tư lệnh Phó Sư đoàn 23
Bộ binh, như Văn Tiến Dũng đă viết trong
cuốn Đại Thắng Mùa Xuân.
Nhưng với cuộc tấn
chiếm Ban Mê Thuột bằng một lực lượng
chính qui Cộng sản Bắc Việt đông hơn
gấp 10 lần, có chiến xa, pháo binh yểm trợ, do
chính Văn Tiến Dũng, Tổng Tư lệnh quân
đội Bắc Việt trực tiếp chỉ huy,
việc giữ được Ban Mê Thuột 48 giờ
đă là một sự kiện hết sức đặc
biệt. V́ Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh
không có hệ thống pḥng thủ để chiến
đấu. Lực lượng chính yếu là Trung đoàn
53 Bộ binh th́ trấn đóng tại phi trường
Phụng Dực, cách Ban Mê Thuột 5 cây số. Trong thị
xă, ngoài các đơn vị Địa phương quân,
chỉ có những thành phần quân nhân lo về tiếp
liệu, pḥng giữ hậu cứ của các Trung đoàn
Bộ binh, hậu cứ các đơn vị Thiết giáp,
Pháo binh, Truyền tin, Quân cụ, Công binh.
Một Huyền Thoại trong
Chiến Tranh Việt Nam
4 giờ sáng ngày 10 tháng 3, 1975.
Sau những trận mưa pháo suốt
2 tiếng đồng hồ, Cộng quân với chiến
xa và biển người, tấn chiếm Ban Mê Thuột. Và
với một lực lượng đông gấp 10
lần, địch đă làm chủ t́nh h́nh ngay từ phút
đầu.
Sự chống trả mảnh liệt
của những đơn vị pḥng vệ thị xă cùng
với sự yểm trợ hữu hiệu gan dạ
của các phi công anh hùng, đă chặn bớt
được sức tiến của quân thù.
Nhưng ngày hôm sau, khi Cộng sản
Bắc Việt tung thêm Sư đoàn tổng trừ bị
316 mới ở miền Bắc vào, th́ lực lương hai
bên giữa ta và địch quá ư chênh lệch, cả
về quân số, chiến xa lẫn vũ khí nặng!
12 giờ trưa ngày 10 tháng 3, 1975
tiểu khu Ban Mê Thuột mất!
8 giờ sáng hôm sau 11 tháng 3, 1975, 10
chiến xa T54 của Cộng sản Bắc Việt
bắn trực xạ vào bộ Tư lệnh Sư đoàn
23 Bộ binh. Vị Tư lệnh chiến trường
chấp nhận rủi ro, nguy hiểm, yêu cầu Không quân
đánh bom thẳng vào những xe tăng địch.
Những phản lực cơ A37 lao xuống. Ba chiếc
T54 bốc cháy, nhưng rồi 2 trái bom khác rơi trúng
sập một đầu hầm của Trung tâm Hành quân
Sư đoàn 23 Bộ binh. Hệ thống truyền tin
giữa Ban Mê Thuột-Pleiku bị hư hại hoàn toàn,
mất liên lạc với Tư lệnh Chiến
trương và Tỉnh trưởng Ban Mê Thuột từ
đó.
8 giờ sáng ngày 11 tháng 3, 1975, giờ
phút của định mệnh, và cũng là khởi
đầu ngày thứ hai trong trận đánh quyết
định giữa hai miền Nam-Bắc 1975. Chiến
trường Ban Mê Thuột coi như kết thúc với
sự tràn ngập của Bắc quân.
Nhưng tại phi trường
Phụng Dực, cách Ban Mê Thuột khoảng 8 cây số
về phía đông, một trung đoàn (-) của Sư
đoàn 23, với 2 Tiểu đoàn của Trung đoàn 53
Bộ binh, một Chi đoàn Thiết vận xa M113, một
Pháo đội đại bác 105 ly vẫn tiếp tục
chiến đấu thêm một tuần lễ nữa. Chiến
đấu dũng mănh, dai dẳng, phi thường cho
đến những người lính cuối cùng và những
viên đạn cuối cùng được bắn đi!
Đó là một huyền thoại trong
một cuộc chiến đấu chống Cộng
thần thánh nhất của quân dân miền Nam Việt Nam.
Đó cũng là biểu tượng tinh thần gang thép,
sắt đá của người chiến sĩ Quân lực
Việt Nam Cộng Ḥa.
Trận thử sức ḍ dẫm
của 2 trung đoàn Cộng sản Bắc Việt và các
lực lượng pḥng thủ mặt trận phi
trường Phụng Dực đầu tiên xảy ra lúc 14
giờ trưa ngày 10 tháng 3, 1975, với kết quả
địch bỏ lại chiến trường trên 200 xác
chết!
Nhưng chưa đầy một ngày
sau, 5 giờ sáng 11 tháng 3, 1975 khi những chiến xa T54
Bắc Việt nghiền nát những đường
phố Ban Mê Thuột, tiến thẳng vào bộ Tư
lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, cũng là lúc địch
quân rửa hận cho đồng bọn chúng tại
mặt trận phi trường Phụng Dực.
Sư đoàn 316 tổng trừ bị
của Cộng sản Bắc Việt lần đầu
tiên được sử dụng trên Chiến trường
Cao nguyên và miền Nam Việt Nam. Từ xa lộ
đất Hồ Chí Minh, sư đoàn này bất chấp
mọi thiệt hại, di chuyển ngày đêm để
tới trận địa đêm 10 tháng 3, 1975. Và ngay sáng hôm
sau, dốc toàn lực lượng tấn công Trung đoàn
53 Bộ binh.
45 phút khởi đầu là những cơn
mưa đạn đại bác khiến chiến sĩ ta
ch́m ngập trong giao thông hào. Sau đó, Bắc quân với
những tên lính trẻ xuất trận lần đầu,
hung hăng, ḥ hét ... xung phong. Từng lớp, từng
lớp gục xuống, nhưng chúng vẫn hô, vẫn
tiến.
Trận thư hùng thứ hai ngày 11 tháng
3, 1975 này kéo dài 2 giờ 40 phút. Gần 200 người anh
hùng của chiến trường miền núi vĩnh
viễn buông súng, ở lại Cao nguyên Việt Nam!
Nhưng những người c̣n
lại vẫn tiếp tục chiến đấu.
Chiến đấu không yểm trợ, không tiếp
tế, không tản thương, không tăm gội, 24
giờ trên 24 giờ ngoài chiến hào pḥng thủ!
Quá nửa lực lượng bị
thiệt hại từ khi ở mặt trận Quảng
Đức rút về. Trung đoàn 53 Bộ binh hiện c̣n
hơn một tiểu đoàn với khoảng 500 tay súng. Và
họ đă chiến đấu đơn độc sang
ngày thứ ba 12 tháng 3, ngày thứ tư 13 tháng 3, ngày thứ
năm 14 tháng 3, ngày thứ sáu 15 tháng 3, ngày thứ bảy 16
tháng 3. Và hôm nay, ngày thứ tám 17 thang 3, 1975!
Thật anh hùng! Thật vĩ
đại! Thật phi thường! Không c̣n từ ngữ
nào khác hơn để ca ngợi, vinh danh họ. Và đó
cũng là một huyền thoại độc đáo
nhất của chiến tranh Viêt Nam trong trận đánh sau
cùng trên Chiến trường Cao nguyên!
Bay trên đầu những người
anh hùng của mặt trận phi trường Phụng
Dực trưa ngày 12 tháng 3, 1975, Thiếu Tướng
Phạm Văn Phú, Tư lệnh Chiến trường Cao
nguyên đă nói chuyện với 2 người quân nhân
lớn nhất và nhỏ nhất của Trung đoàn 53
Bộ binh.
"Người anh hùng Vơ Ân", Trung
tá Trung đoàn trưởng:
- Tŕnh Mặt Trời, lực
lượng địch quá mạnh. (Mặt Trời là danh
hiệu ngày hôm nay của Tướng Phú, Tư lệnh Quân
đoàn II).
- Chú mày chịu nổi không? Tinh
thần anh em ra sao?
- Bị sứt mẻ kha khá ngày hôm qua,
nhưng chưa sao. Mặt Trời yên tâm!
- Chú mày muốn ǵ đặc biệt
không?
- Dạ không! Nhưng sao Mặt
Trời không bay trực thăng hôm nay?
- Tại qua muốn ở chơi
với chú mày và những anh em khác lâu lâu một chút. Mà
tại sao chú mày hỏi như vậy?
- Tại v́ tôi muốn Mặt Trời
đáp xuống coi kho vũ khí Việt cộng ở pḥng
danh dự phi cảng cho anh em lên tinh thần.
Tướng Phú cười:
- Ư kiến hay đấy! Thôi ...
để lần sau vậy!
- ...
"Người anh hùng Nguyễn
Văn Bảy", Binh nh́ xạ thủ súng cối 81 ly:
- Em tên ǵ? Bao nhiêu tuổi?
- Dạ ... Binh nh́ Nguyễn Văn
Bảy, 18 tuổi!
- Em thấy Việt cộng chết
nhiều không?
- Nhiều, nhiều lắm ... Thiếu
tướng!
- Em muốn xin Thiếu tướng ǵ
nào?
- xin thuốc hút và ... lựu
đạn.
- Ǵ nữa?
- Thôi!
- Thiếu tướng thăng cấp
cho em lên Binh nhất! Chịu không?
- ...
Một giọng cười khúc khích
trong máy:
- Ông Thầy! Ông Tướng tặng
tôi cái "cánh gà" chiên bơ!
- Không được ... tao phản
đối!
- ...
Cái "cánh gà", chữ V, là h́nh dáng
của chiếc lon Binh Nhất. Ông Thầy là tiếng
gọi thân mật vị Trung tá Trung đoàn trưởng mà
người "Binh Nhất vừa được tân
thăng" Nguyễn Văn Bảy thường hay sử
dụng.
Mẫu đối thoại trên cho
thấy t́nh chiến hữu, anh em của những
người lính Trung đoàn 53 Bộ binh. Đó cũng là
một cách để chứng minh, tại sao trong những
ngày cuối cùng họ vẫn sống chết bên nhau?
Họ đă chia nhau từng viên đạn, từng dúm gạo
sấy, từng hớp nước, từng hơi
thuốc ...
Theo thời gian, 7 ngày đêm chiến
đấu dài hơn 7 năm tại mặt trận phi
trường Phụng Dực. Đă ba ngày rồi, từ
khi lệnh triệt thoái cao nguyên được ban hành,
Trung đoàn 53 không c̣n nhận được bất cứ
một tiếp tế, liên lạc nào với Quân đoàn.
Họ đă phải sử dụng cả súng đạn
tịch thu được của quân thù trong trận
đánh đầu tiên, để bắn lại chúng!
Nhưng hôm nay, ngày 17 tháng 3, 1975 là ngày
dài nhất trong cuộc đời lính chiến của
họ!
7 giờ 40 phút sáng, khi rừng núi cao
nguyên vẫn c̣n ngủ yên với những lớp
sương mù phủ kín, hàng trăm hàng ngàn viện
đại bác Bắc quân nă vào những chiến hào của
Trung đoàn 53 Bộ binh. Cỏ cây rạp xuống.
Những cột đất đỏ từng cụm,
từng khóm tung cao!
Trận địa pháo kéo dài một
tiếng đồng hồ. Tiếp theo sau là tiếng loa
kêu gọi đầu hàng. Tiếng ḥ reo "sóng vỡ"
của biển người. Và rồi tiếng gầm thét
của hàng đoàn chiến xa T54 trên khắp ngả
tiến vào, cầy nát phi đạo phi trường
Phụng Dực Ban Mê Thuột!
Hôm nay là ngày đầu của cuộc
rút quân của Quân đoàn II. Sư đoàn 316 Cộng
sản Bắc Việt quyết khai tử Trung đoàn 53
Bộ binh, quyết nhổ đi "cái gai" cuối
cùng của mặt trận Ban Mê Thuột, của Chiến
trường Cao nguyên để tiến về duyên hải.
8 giờ 30 sáng, Đại tướng
Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu trưởng Quân lực
Việt Nam Cộng Ḥa, vị Tướng lớn nhất
của Quân đội gọi yêu cầu được
tường tŕnh đặc biệt về mặt trận
phi trường Phụng Dực và các chiến sĩ Trung
đoàn 53 Bộ binh.
Đây cũng là một vinh dự,
một hănh diện cuối cùng dành cho những dũng
sĩ tại mặt trận này! Nhưng Đại
tướng Viên chỉ được báo cáo qua nguồn
tin không chính xác (!) của bộ Tư lệnh Sư đoàn
23 hành quân ở Phước An: Trung đoàn 53 Bộ binh
đang bị đánh rất nặng, Bắc quân đă tràn
ngập vị trí pḥng thủ!
Đạn hết, lương thực
hết, không c̣n cấp chỉ huy, không c̣n được
yểm trợ, không c̣n máy móc liên lạc để ... kêu
cứu. Những chiến sĩ Trung đoàn 53 Bộ binh
gục ngă từng người, từng tổ, từng ...
tiểu đội ... trong những chiến hào ...
11 giờ 30 sáng, tiếng súng im bặt.
Bắc quân cắm ngọn cờ đỏ trên đài
kiểm soát của phi trường Phụng Dực, và thu
dọn chiến trường.
Không có tù binh, không có cả những
người lính bị thương. Những dũng sĩ
Trung đoàn 53 Bộ binh không c̣n chiến đấu
nữa. Họ đă tan ra, đă nát ra ... từng mảnh
vụn, và lẫn trong đất đỏ của miền
cao nguyên hùng vĩ!
Ngày 17 tháng 3, 1975 Trung đoàn 53 Bộ
binh bị Bắc quân xóa tên. Đó cũng là một ngày
đau buồn! Lần đầu tiên trong 21 năm
chiến đấu chống cộng, giữ nước,
bộ Tư lệnh Quân đoàn II triệt thoái khỏi cao
nguyên!
Nhưng không, đó vẫn chưa
phải là những ḍng chữ cuối cùng viết về
các dũng sĩ Trung đoàn 53 Bộ binh! Bởi v́ ...
vẫn c̣n những anh hùng của Quân lực Việt Nam
Cộng Ḥa mang phù hiệu của Trung đoàn 53 ... trên vai
áo.
Hai ngày sau, khi Bắc quân tràn ngập phi
trường Phụng Dực, Ban Mê Thuột, một nhóm 16
quân nhân của đơn vị này đă về
được Phước An và tiếp tục chiến
đấu tại mặt trận Quốc lộ 21.
Một tuần lễ sau nữa, ngày 24
tháng 3, 1975 ba người anh hùng khác, sau 7 ngày 7 đêm, đi
trên mấy chục cây số đường rừng núi,
sống với cỏ cây thiên nhiên, từ Ban Mê Thuột
đă lên tới buôn Thượng Dam Rong, Đà Lạt!
Họ là những quân nhân bất tử
của Trung đoàn 53 Bộ binh! Họ thật vĩ
đại, thật phi thường! Và đó cũng là
một huyền thoại của chiến tranh Việt Nam
trong trận chiến Nam-Bắc sau cùng 1975.
Liên tỉnh lộ 7 Pleiku-Phú Bổn-Phú
Yên
Ngày
thứ nhất 17 tháng 3, 1975.
Ngày đầu tiên của cuộc rút
quân. Trời mây mù, ảm đạm. Trong 21 năm chiến
đấu chống Cộng giữ nước của quân
dân miền Nam, kể từ sau Hiệp định Genève,
đây là một ngày đau buồn nhất xảy ra trên
Chiến trường Cao nguyên Việt Nam.
Thành phố Pleime nằm trên một
ngọn đồi cao, nơi đặt bản doanh
của bộ Tư lệnh Quân đoàn II hôm nay không c̣n
vẻ uy nghiêm, hùng vĩ nữa. Cây cột cờ mà mấy
ngày trước địch pháo gần trúng, đứng
trơ trọi như một thân cây trụi lá. Không c̣n lá
cờ vàng ba sọc đỏ thân yêu, không c̣n lá cờ
tướng với những ngôi sao trắng
được kéo lên, như mỗi ngày trước
đây!
Con đường từ bộ Tư
lệnh Quân đoàn về Pleiku kéo dài mấy cây số, và
từ những ngả đường khác đổ xô
về, người và xe cộ nối đuôi, dồn,
lấn, kẹt cứng.
Tin Quân đoàn "di tản" đă
không c̣n là một tin "tối mật" như các
giới chức quân sự mong muốn. Từ hai ngày nay,
mọi người dân Pleiku, mọi gia đ́nh quân nhân, và
chắc chắn cả ... địch nữa, đều
biết. Hỗn loan, cướp bóc, bắn phá xảy ra
nhiều nơi, trong và ngoài thị xă.
8 giờ 40 phút, cắt đứt
mọi liên lạc bằng điện thoại với
bộ Tư lệnh Quân đoàn II ở Pleiku. Đoàn xe di
chuyển, khoảng 4000 quân xa đủ loại và những
xe dân sự.
9 giờ 15 phút, Tướng Lê Văn
Thân, Phụ tá Quân khu II và Trưởng pḥng 3 Quân đoàn bay
trên C47, bộ Chỉ huy Hành quân trên không, để quan sát
đoàn xe. Thêm một máy bay bay quan sát được
lệnh liên lạc thường trực với
Tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy cuộc rút quân.
Danh hiệu của các cấp chỉ
huy trong cuộc triệt thoái Quân đoàn II ngày 17 tháng 3, 1975:
Tư lệnh Quân đoàn - Hiệp T́nh
Tướng Phạm Duy Tất -
Trường An
Tướng Trần Văn Cẩm - Phi
Bảo
Đại tá Lê Khắc Lư, Tham mưu
trưởng Quân đoàn - Công Danh
Đoàn xe - Công B́nh
Trực thăng - Nam Hiền
9 giờ 30, Tướng Trần
Đ́nh Thọ, Trưởng pḥng 3 bộ Tổng tham
mưu gọi ra ghi nhận một lần nữa những
rối loạn và t́nh h́nh xảy ra thật sự tại
Pleiku ngày 16 tháng 3, 1975 để tŕnh thượng cấp.
Theo báo cáo của Đại tá Lư
gọi thẳng về Saigon, t́nh h́nh Pleiku ngày 16 tháng 3, 1975
cực kỳ hỗn loạn. Phi trường Cù Hanh, dân
chúng, binh sĩ và gia đ́nh tràn vào. Lực lượng an
ninh không giữ được trật tự. Cướp
của, hăm hiếp đă xảy ra.
Một báo cáo khác của Đại tá
Hoàng Thọ Nhu, Tỉnh trưởng Pleiku gọi về Nha
Trang tŕnh với Tướng Phú th́, t́nh h́nh có rối
loạn nhưng không ở mức độ trầm
trọng. Bởi v́ nếu "cực kỳ hỗn
loạn" th́ Tướng Tất và bộ Tư lệnh
Quân đoàn đă không sắp xếp và tổ chức
được đội h́nh của đoàn xe, hơn 4000
cái di chuyển ngày hôm nay. "Tiếng nói" của
Đại tá Nhu coi như là tiếng nói chính thức,
đại diện cho Tướng Tất, người thay
Tướng Phú chỉ huy cuộc rút quân!
Tướng Phú giận lắm,
nhưng chỉ tŕnh bày với Tướng Thọ, v́
Đại tá Lư mất b́nh tĩnh nên báo cáo không đúng
sự thật!!!
Đại tá Lê Khắc Lư, Tham mưu
trưởng Quân đoàn II là một sĩ quan rất
giỏi về tham mưu và tổ chức. Nhưng vụ
Tướng Phú gắn sao cho Đại tá Tất làm ông
bất măn và chán nản. Với sự thông minh và khôn ngoan,
ông nh́n thấy trước sự thất bại của
Quân đoàn kỳ này trong cuộc rút quân. Do đó, viếc
Tướng Phú hứa hẹn cho ông lên Tướng chỉ
là một lời hứa viển vông, không bao giờ thành
sự thật.
Cũng v́ vậy, ngay khi Tướng
Phú rời Pleiku, ông đă bất chấp mọi lệnh
của Tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hành
quân Tư lệnh Quân đoàn, và Tướng Phạm Duy
Tất, chỉ huy cuộc rút quân.
Tướng Phú được thông báo
về sự việc này, nên khi nghe Đại tá Lư báo cáo
thẳng về Saigon những rối loạn, cướp
bóc, hăm hiếp xảy ra tại Pleiku đêm 16 tháng 3, 1975 lại
cho rằng Đại tá Lư bất măn, nên phá hoại. Sự
thật những điêu Đại tá Lư tŕnh cho
Tướng Thọ đều đúng! Ghi nhận sự
kiện này ra đây để nói lên sự đổ
vỡ tồi tệ của hệ thống chỉ huy Quân
đoàn II. V́ sự đố kỵ, bất măn, bất
lực và vô kỷ luật của cả những sĩ quan
cao cấp và có trách nhiệm nhất, đưa đến
sự thảm bại nặng nề trong cuộc rút quân
khỏi cao nguyên.
10 giờ phi trường Cù Hanh chính
thức đóng cửa.
10 giờ 15 phút, liên lạc lần
cuối cùng giữa Tư lệnh Quân đoàn II và
Tướng Cẩm tại Pleiku bằng STS-106. Xác nhận
về việc ra lệnh cho Tỉnh trưởng Pleiku pḥng
thủ tỉnh này. Nghi ngờ hệ thống truyền tin
bị địch phá.
10 giờ 45 phút, Đại tá Trần
Cửu Thiên bay đi Phú Bổn cùng với các chuyên viên
truyền tin, thiết lập hệ thống liên lạc
để tường tŕnh t́nh h́nh đoàn xe từng giơ
về Nha Trang, Saigon.
10 giờ 50 phút, Tổng Thống
Thiệu gọi ra lệnh giải tỏa gấp rút
mặt trận Khánh Dương và Quốc lộ 21 bằng
mọi giá. Chấp thuận cho Đại tá Nguyễn
Văn Đức làm Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ
binh.
Chặng đầu của cuộc rút
quân Pleiku-Phú Bổn sáng ngày 17 tháng 3,1975 diễn ra tốt
đẹp. Hệ thống liên lạc siêu tần số
từ Nha Trang và đoàn quân triệt thoái bị gián
đoạn trong 2 giờ đầu. Nhưng sau đó,
từ 12 giờ 20 phút, mọi liên lạc và báo cáo
đều rơ ràng.
13 giờ, đoàn xe về gần
tới Phú Bổn. Một số xe bị ứ
đọng. Nhừng lệnh cần thiết
được ban hành. Các Tướng Cẩm và Tất
đích thân chỉ huy, điều động. Các
đơn vị vào vị trí pḥng thủ.
Liên đoàn 6 Công binh Chiến
đấu và những đơn vị Biệt động
quân tiếp tục mở và dọn đường cho
chặng kế tiếp. Lữ đoàn II Thiết giáp và các
Liên đoàn Biệt động quân khác đi sau cùng bảo
vệ đoàn quân và chiến cụ, đề pḥng bị
địch đánh tập hậu.
13 giờ 40 phút, Tướng Thọ,
Trưởng pḥng 3 Tổng Tham mưu gọi ra từ Saigon
cho biết, Tổng Thống, Hội đồng Nội
các, và các Tướng lănh khen ngợi Tư lệnh và
bộ Tư lệnh Quân đoàn II về cuộc rút quân.
Nhưng đấy chỉ là chặng
đầu trên Liên tỉnh lộ 7. Con đường chôn
vùi hàng nhiều ngàn xác đồng bào và trẻ thơ vô
tội. Chôn vùi tên tuổi tất cả các Tướng lănh
đạo Đất Nước trong những năm sau
cùng. Và cũng chính là con đương đưa
đến sự sụp đổ mau chóng của Quân
lực Việt Nam Cộng Ḥa, để rồi miền Nam
Việt Nam mất vào tay Cộng sản sau đó.
18 giờ 15 phút, Đại tá Tham
Mưu trưởng báo cáo về t́nh h́nh Phú Bổn. Đă
tổ chức, phân loại xe quân đội và dân sự. Ra
lệnh các đơn vị không được tự ư
tách rời đoàn xe đi riêng.
Một sự việc xảy ra vào
buổi tối. Lính Thương nổi loạn,
đốt nhà, ăn cướp, nhưng chỉ là một
nhóm nhỏ. Tỉnh trưởng Phú Bổn đă giải
quyết và chận đứng.
Mặt trận
Phước An
Bộ Tư lệnh Quân đoàn II, các
Lực lương Thiết giáp, Không quân, Pháo binh và Chủ
lực quân đă rút khỏi Kontum, Pleiku. Trong 2 ngày nữa,
nếu đoàn xe không về tới Phú Bổn như dự
định, th́ mặt trận Phước An sẽ vô cùng
nguy ngập. Bởi v́ địch chỉ cần sử
dụng một phần lực lượng tại trận
địa Ban Mê Thuột hiện nay, với chiến xa và
trọng pháo yểm trợ, sẽ dứt Phước An
dễ dàng. Và sau đó là Khánh Dương.
Kiểm điểm lại quân số
của sư đoàn và những đơn vị tăng
cường hiện đang ở mặt trận
Phước An, Đại tá Đức, tân Tư lệnh
Sư đoàn 23 Bộ binh vô cùng lo ngại.
Lực lương chính yếu của
sư đoàn là Trung đoàn 45 Bộ binh. Đơn vị
với tinh thần cao độ, đă t́nh nguyện
nhảy xuống Phước An trong đoàn quân tăng
viện ngày 12 và 13 tháng 3, th́ hôm nay đă tan hàng, trở thành
dân sự già nửa quân số.
Buổi sáng, trong đợt di dân
mới từ Ban Mê Thuột, khoảng 5000 người
đă băng rừng đi về phía Phước An và nam
Khánh Dương. Một số lớn là vợ con anh em binh
sĩ Trung đoàn 45. Do đó, họ tự động
bỏ súng, "chạy loạn" với gia đ́nh.
Trung đoàn 45 c̣n lại đúng 200.
Trung đoàn 44 với một Tiểu đoàn Chiến
đấu và một Đại đội Trinh sát chưa
sứt mẻ, khoảng 300.
Liên đoàn 21 Biệt động quân,
110 người. Bộ Tư lệnh Sư đoàn tại
Chu Cúc, 42. Hậu trạm tại Khánh Dương, 6.
Khoảng 700 tay súng, không chiến xa và
có 4 khẩu đại bác 105 ly. Đó là thực lực
của mặt trận lớn nhất hiện nay tại
Quân khu II. Một trận đánh lớn nếu xảy ra,
chắc chắn lực lượng này phải đương
đầu với Sư đoàn F10 Cộng sản Bắc
Việt từ Ban Mê Thuột kéo về, với quân số 7,
8 ngàn và có chiến xa, đại pháo yểm trợ !
"Người lính già" của
chiến trường với 25 năm quân ngũ, Tư
lệnh phó Biệt khu 44 của Tướng Phú năm 1969,
chờ đợi giây phút này từ lâu. Và hôm nay ... đă
đến. Tổng Thống Thiệu, Đại
tướng Viên cùng chấp thuận việc bổ
nhiệm ông là Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh!
Đại tá Đức khẽ mỉm
cười, và tiến lại phía các chiến hữu
của ḿnh đang pḥng thủ để quan sát.
17 giờ, phi cơ quan sát phát hiện
khoảng 10 chiến xa địch gần Chu Cúc, xin đánh
bom tối đa.
5 phi tuần khu trục từ Phan Rang
lên. Điều động trễ 15 phút. Phi tuần 1 lên
tới vùng mục tiêu lúc 17 giờ 40 phút. Trời mù, không
nh́n rơ, các khu trục cơ phải quay về. Tư
lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh vẫn tiếp tục
xin Không quân đánh tiếp.
Thêm 2 xe tăng Cộng sản Bắc
Việt di chuyển ở phía bắc cây số 62, mặt
trận Khánh Dương. Và tin t́nh báo mới nhất thâu
thập được qua một tù binh Bắc Việt
bắt được ngày 16 tháng 3, 1975, hai Trung đoàn 64 và
48 Cộng sản Bắc Việt đă di chuyển tới
tây bắc Khánh Dương khoảng 20 cây số. Lực
lương Sư đoàn 23 Bộ binh sẽ cùng phối
hợp với 2 Tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 22
Bộ binh tăng cường tổ chức tuyến pḥng
thủ, chận đứng cuộc tiến quân xuống
Khánh Dương, Dục Mỹ của địch.
Nhưng cũng chỉ là trứng
chọi đá! Quả thật trong trận này, lực
lượng Việt cộng và quân ta quá chênh lệch!
Một sự việc cuối cùng và
đặc biệt xảy ra hôm nay mà tôi ghi nhận, đó
là yêu cầu của 2 Tỉnh trưởng Kontum và Pleiku xin
máy bay chở bạc về Tổng Ngân Khố, Saigon.
Bộ Tư lệnh Quân đoàn lúc
đầu chấp thuận, nhưng sau lại hủy
bỏ. V́ phi trường Cù Hanh, Pleiku đă đóng cửa
từ lúc 10 giờ sáng. Và, số bạc khổng lồ
của 2 tỉnh liền được ... đốt
đi!
Đây cũng là một sự việc
cực kỳ khó hiểu. Tại sao các Tỉnh
trưởng Kontum, Pleiku được "ủy
quyền" ở lại pḥng thủ 2 thị xă này,
lại xin máy bay chở bạc, và sau đó
"đốt" đi hàng trăm triệu bạc, ngay
cùng ngày Quân đoàn vừa di tản khỏi Pleiku?
Tôi quá mệt mỏi nên đă không t́m
hiểu "lệnh đốt bạc" từ đâu
tới. Từ Saigon hay từ bộ Tư lệnh Quân
đoàn II?