(LTS: Ông chết khoảng năm 1995 khi vừa tới Hoa Kỳ không được bao lâu, sau một cơn bịnh nặng. Ông đã bị giam trong tù cải tạo của CS khoảng 13 năm).
Ông đến Pleiku với vài sĩ quan thân tín của ông, lập một bộ tham mưu riêng để làm việc. Trong thời gian này, tôi (Ðại tá Trịnh Tiếu) là Trưởng Phòng Nhì Quân đoàn II và Quân khu II từ thời Trung tướng Vĩnh Lộc và Lữ Lan. Ðây là lần đầu tôi phục vụ dưới quyền Tướng Ngô Du mặc dù đến năm này (1970) tôi đã phục vụ trong quân đội được 17 năm. Những ngày đầu làm việc với Tướng Ngô Du, tôi phải trải qua một thời gian trắc nghiệm khả năng chuyên môn và thủ tục tham mưu theo sách vở Hoa Kỳ thật gay go. Có những buổi ông gọi tôi lên văn phòng của ông hàng giờ để nhận xét xem tôi có hiểu những danh từ chuyên môn về tình báo theo sách vở tham mưu của quân đội Hoa Kỳ mà ông đã biết. Rất may là tôi đã tốt nghiệp khóa tình báo cao cấp tại Hoa Kỳ vào năm 1968. Tôi trả lời ông rất rõ ràng và đầy đủ những gì ông muốn trắc nghiệm tôi, lúc đó tôi có cảm tưởng ông là vị Tướng chỉ huy trưởng tham mưu Hoa Kỳ, vì ông rất giỏi về thủ tục tham mưu.
Tướng Ngô Du giữ chức vụ Tư lịnh Quân đoàn II vào một thời gian rất thuận
lợi cho ông, vì trước đó 3 tháng (5/1970), Tướng Lữ Lan đã tổ chức một cuộc
hành quân vượt biên qua lãnh thổ Cam-bốt đánh thẳng vào Quân khu 702 của CS
tại tỉnh Ratanakiri. Quân đội ta đã phá hủy toàn bộ khu hậu cần của CS tại
mật khu này, ta tịch thu rất nhiều vũ khí nặng của địch, như súng phòng
không, cối 120 ly, đại liên 12.7 và hỏa tiễn, v.v... Còn những mật khu nhỏ
của CS trong lãnh thổ Quân khu II, Sư đoàn 22BB và Sư đoàn 23BB cùng với
địa phương quân đã thanh toán. Trong thời gian này, CS rất yếu, các đơn vị
chính quy của địch hầu như bị tê liệt, vì thế Tướng Ngô Du đặt hết trọng
tâm vào công tác bình định và phát triển tại Quân khu II. Ông say mê làm
việc suốt ngày đêm, vợ con ông đều để lại Saigon. Bà Ngô Du đặc biệt không
bao giờ tham gia vào công việc của chồng. Có nhiều đêm, Tướng Ngô Du gọi
tôi qua để thảo luận tình hình vào lúc 2, 3 giờ sáng. Ông cũng thường điện
thoại các Tỉnh trưởng trong vùng cũng vào giờ này.
Một điều rất khó xử cho Ðại tướng Hoa Kỳ Creighton Abrams lúc bấy giờ là
làm thế nào để một vị dân sự chỉ huy Hoa Kỳ còn lại tại Quân đoàn II. Trong
lịch sử Hoa Kỳ, chưa bao giờ có một dân sự giữ chức vụ cấp tướng và chỉ huy
các đơn vị Hoa Kỳ tại mặt trận trong thời chiến, trường hợp của Vann là một
biệt lệ.
Theo ước tính của các tướng lãnh Hoa Kỳ tại VN, vào năm 1972, CS sẽ mở
nhiều mặt trận lớn tại Quân đoàn I và Quân đoàn II, vì thế kế hoạch bình
định và phát triển phải đặt hàng đầu trong năm 1971, để các đơn vị chính
quy của ta rãnh tay đối đầu với địch vào năm 1972. Quân đoàn II cần có một
cố vấn nhiều kinh nghiệm về bình định phát triển, hợp tác chặt chẽ với
Tướng Ngô Du, Tư lịnh Quân đoàn. Người cố vấn đó không khác ai ngoài Paul
Vann, vì ông đã xuất sắc trong chức vụ này. Tháng 5/1971, Paul Vann đã được
Tướng Abrams bổ nhiệm làm cố vấn Tư lịnh Quân đoàn II và Quân khu II.
- Ðại tá có biết Sư đoàn 320 của CS Bắc Việt hay không ?
Tôi trả lời:
- Sư đoàn 320 là sư đoàn nổi tiếng tại Ðiện Biên Phủ trong thời gian chiến
tranh với Pháp vào năm 1954.
- Ðại tá có biết sư đoàn này đang ở đâu không ?
- Vị trí đóng quân của các sư đoàn CS miền Bắ'c, Phòng Nhì của Bộ Tổng tham
mưu nắm rất vững, tôi sẽ hỏi và tin cho ông biết sau.
Paul Vann nói tiếp:
- Tôi có nguồn tin chính xác, sư đoàn này đang dưỡng quân tại Thanh Hóa,
trong tháng 2/1972 này sẽ di chuyển vào vùng Tam Biên Việt - Miên - Lào, và
sẽ tham chiến với ta vào tháng 2/1972.
Ông nói thêm:
- Kỳ này tôi nghỉ phép Giáng sinh 15 ngày tại Hoa Kỳ. Vậy Ðại tá cố gắng
dùng các phương tiện về tình báo của Ðại tá để xác nhận chính xác vị trí
của Sư đoàn 320, sư đoàn này chuyển vào vùng Tam Biên. Tướng Ngô Du và tôi
sẽ có kế hoạch tiêu diệt sư đoàn này".
Tôi cám ơn về những tin tức vừa cho. Trước đây, tôi đã có dịp đi quan sát
phi trường N.K.P. của Hoa Kỳ nằm trên lãnh thổ Thái Lan, đối diện với tỉnh
Thakkhet của Lào. Tại phi trường này, khi phi cơ cất cánh lên cao độ thì có
thể quan sát được đèo Mụ Gia trên đường đi qua biên giới Viêt - Lào, nằm
giữa Vinh và Ðồng Hới. Với những phương tiện tình báo điện tử rất tối tân,
Hoa Kỳ có thể biết được sự di chuyển của CS từ Bắc vào Nam, vì thế tôi tin
những tin tức tình báo của Hoa Kỳ trên lãnh thổ Bắc Việt là chính xác.
Hàng ngày đều có máy bay không thám của Quân đoàn và phi cơ chụp không ảnh
của Bộ Tổng tham mưu CS, chụp ảnh một khu vực rộng lớn trên đường mòn Hồ
Chí Minh để theo dõi các hoạt động của địch trên các đường mòn đưa vào lãnh
thổ Quân khu II. Các toán viễn thám, biệt kích, trinh sát và tình báo đã
được thả xuống khắp nơi tại vùng ba biên giới để rình bắt các cán binh CS
đi lẻ tẻ trong rừng.
Quả nhiên, đến cuối tháng 1/1972, các toán thám báo đã bắt được một cán
binh CS nhỏ tuổi (khoảng 17 tuổi). Người này khai thuộc Sư đoàn 320 vừa mới
hành quân đến vùng ba biên giới. Tù binh khai Sư đoàn 320 di chuyển ngày
đêm, đúng một tháng từ Thanh Hóa đến vùng đương sự vừa bị bắt. Tôi liền
trình lên Tướng Ngô Du và cố vấn Paul Vann các tin tức mà tù binh này đã
cung cấp.
Paul Vann hứa với Tướng Ngô Du rằng ông có thể xin Ðại tướng Abrams tất cả
25 "Box" của pháo đài bay B-52 mà Hoa Kỳ đang dùng để yểm trợ cho VN trên 4
vùng chiến thuật mỗi ngày, để tiêu diệt tối đa quân địch tại Quân đoàn II.
(Mỗi "Box" B-52, bề dài 3 km, bề ngang một km, được thả bằng 3 chiếc B-52
chứa trên 100 quả bom đủ loại, từ 100 lbs đến 500 lbs). Sư đoàn 22BB tại
Bình Ðịnh được lịnh di chuyển 2 trung đoàn và Bộ Tham mưu một của sư đoàn
lên Tân Cảnh để giao chiến với Sư đoàn 320 của CS Bắc Việt. Quân đoàn dự
trù CS sẽ tăng cường Sư đoàn 2 Sao Vàng cho mặt trận này. Tướng Ngô Du
thiết lập thêm 2 căn cứ hỏa lực là căn cứ 5 và 6 trên các sườn đồi phía Nam
Tân Cảnh để yểm trợ hỏa lực pháo binh cho Sư đoàn 22BB. Toàn bộ pháo binh
và chiến xa cơ hữu của sư đoàn cũng được điều động lên vùng này. Ngoài ra,
Quân đoàn còn tăng cường thêm Biệt Ðộng Quân để củng cố vững chắc đồn biên
phòng Ban Het, cửa ngõ đi vào lãnh thổ Quân Ðoàn II và Quân khu II. Nhiệm
vụ của Sư đoàn 22BB là dụ cho địch xuất hiện và đi vào thật sâu để Không
quân Hoa Kỳ tiêu diệt bằng B-52.
Sau khi dàn binh bố trận xong, Tướng Ngô Du mời Ðại tướng Cao Văn Viên lên
quan sát mặt trận vào cuối tháng 2/1972. Qua một ngày đi thăm tất cả các
đồn bót và công sự bố phòng của ta, trước khi ra về, Ðại tướng đã bắt tay
thân mật Tướng Ngô Du và Paul Vann và nói:"Tôi chưa thấy một cuộc phối trí
quân sự nào chu đáo và đầy đủ như sự phối trí này. Tôi tin tưởng 2 ông sẽ
đập nát Sư đoàn 320 bằng hỏa lực không quân và pháo binh của VN và Hoa Kỳ.
Chúc 2 ông thành công tốt đẹp".
Paul Vann đề nghị Tướng Ngô Du thay thế 2 vị tư lịnh này viện lý do sau
đây: Mặt trận sắp tới sẽ sôi động và gây cấn, cần phải có các tư lịnh sư
đoàn năng động, trẻ tuổi. Hai Tướng Triễn và Cảnh đã lớn tuổi. Như tôi (Ðại
tá Trịnh Tiếu) đã nói trên, John Paul Vann rất năng động, hiếu thắng và
kiêu căng, nên ông chỉ thích các đại tá trẻ, có can đảm làm tư lịnh sư
đoàn. Tướng Ngô Du bị bất ngờ trước ý kiến này của Paul Vann, nên đã nói
với Paul Vann biết rằng việc bổ nhiệm tư lịnh sư đoàn là do Tổng thống
Thiệu quyết định, ông không có quyền. Hơn nữa, 2 vị tướng tư lịnh nói trên
không phạm lỗi gì, nên không thể đề nghị thay đổi được. Nhưng Paul Vann
nhất quyết đề nghị thay thế 2 vị tư lịnh sư đoàn. Tướng Triễn và Tướng Cảnh
biết được những khó khăn của Tướng Ngô Du trong lúc mặt trận sắp bùng nổ
nên 2 ông đã nói với Tướng Ngô Du rằng vì "đất nước và quân đội", 2 ông sẽ
sẵn sàng làm đơn lên Tổng thống xin từ chức vì lý do sức khoẻ để Tướng Ngô
Du tiện việc sắp xếp. Thái độ của 2 Tướng này đã làm cho quân nhân các cấp
ở trong Quân doàn khâm phục. Paul Vann đề nghị:"Ðại tá Lý Tòng Bá và Ðại tá
Lê Minh Ðảo, là các sĩ quan trẻ, năng động và có nhiều kinh nghiệm chiến
trường mà tôi biết tại Quân đoàn II. Tướng Ngô Du hỏi:
- Quân đoàn II có nhiêu Ðại tá trẻ và giỏi như Ðại tá Lê Ðức Ðạt. Ðại tá
Tôn Thất Hùng, và nhiều Ðại tá khác, tại sao ông không đề nghị ?". Paul
Vann trả lời:"Ðại ta Lê Ðức Ðạt mang tiếng tham nhũng tại Quân đoàn III,
nên tôi không đề nghị, còn Ðại tá Tôn Thất Hùng tôi chưa có cơ hội được
biết khả năng của ông ta.
Tình hình quân sự tại mặt trận càng ngày càng khẩn trương, Tướng Ngô Du cần
phải thỏa mãn gấp điều kiện của Paul Vann, nhưng ông chỉ thỏa mãn 50%. Ông
đề nghị Tổng thống Thiệu bổ nhiệm Ðại tá Lý Tòng Bá làm Tư lịnh Sư đoàn
23BB và Ðại tá Lê Ðức Ðạt làm Tư lịnh Sư đoàn 22BB. Sở dĩ Tướng Ngô Du đề
nghị Ðại tá Lê Ðức Ðạt là vì Ðại tá Ðạt đang là Tư lịnh phó Sư đoàn 22BB,
lên thay thế Tư lịnh sư đoàn là hợp lý. Hơn nữa, Ðại tá Ðạt rất thân với
Ðại tướng Cao Văn Viên, nên ông nghĩ rằng khi Ðại tá Ðạt lên làm Tư lịnh
tại mặt trận thì Ðại tướng Viên sẽ yểm trợ tối đa cho Ðại tá Ðạt. Paul Vann
rất giận Tướng Ngô Du đã không đề nghị Ðại tá Lê Minh Ðảo trong chức vụ Tư
lịnh Sư đoàn 22BB.
Ðại tá Ðạt làm Tư lịnh tại mặt trận Tân Cảnh được một tuần lễ thì địch bắt
đầu chạm súng lẻ tẻ với ta tại nhiều nơi. Ðại tướng Cao Văn Viên liền tăng
cường cho Ðại tá Ðạt một Lữ đoàn Dù. Tướng Ngô Du đã thổ lộ với tôi trên
trực thăng chỉ huy của ông là Paul Vann là một người Mỹ rất hăng say muốn
giúp VN, nhưng không thông cảm cho hoàn cảnh và tình cảm của người VN.
Theo tin tức tình báo mà Phòng II chúng tôi thu thập được vào giờ chót thì
Tướng Hoàng Minh Thảo sẽ xử dụng Sư đoàn 2 của CS Bắc Việt đương đầu với
các đơn vị của Sư đoàn 22BB để cầm chân sư đoàn này tại Tân Cảnh, còn Sư
đoàn 320 của CS sẽ tiến quân vào Kontum.
Ðể đối phó với tình thế mới, Tướng Ngô Du đã xử dụng Lữ đoàn Dù vừa được
Ðại tướng Viên tăng cường, tiến chiếm dãy đồi phía Tây sông Polco và thiết
lập 2 căn cứ hỏa lực mới là "Charlie" và "Delta" để ngăn chặn Sư đoàn 320
của CS. Kế hoạc phối trí này rất tốt đẹp lúc đầu.
Vào 4g sáng ngày 3/4/1972, Sư đoàn 320 tấn công biển người vào căn cứ
"Delta", nhưng đã gặp sức kháng cự vô cùng mãnh liệt của các chiến sĩ Dù
(Mũ đỏ). Sau nhiều đợt tấn công và pháo kích tới tấp bằng hỏa tiển 122 ly
và cối 120 ly, địch chỉ chiếm được hàng rào đầu tiên vào căn cứ. Tướng Ngô
Du và tham mưu lên căn cứ Võ Ðịnh trên Quốc lộ 14 để chỉ huy mặt trận. Cố
vấn Paul Vann được tin này rất phấn khởi, cũng bay lên quan sát 2 căn cư
"Delta" và "Charlie". Paul Vann thấy rõ một số Cộng quân đông đảo đang bao
vây quanh căn cứ "Delta" giữa hàng rào thứ một và thứ 2, ông liền gọi các
phi tuần của Không lực Hoa Kỳ cất cánh từ Thái Lan qua oanh kích liên tục
chung quanh căn cứ "Delta", ông còn gọi thêm các phi cơ Stinger và Spectre,
được trang bị đặc biệt đại bác Bofors và đại liên Vulcan để yểm trợ căn cứ
này.
Chiều ngày 3/4/1972, Cộng quân chưa chiếm dược đồn nhưng các chiến sĩ Dù đã
cạn hết đạn dược, thuốc men và nước uống. Trực thăng Chinook của ta được
lịnh Tướng Ngô Du tiếp tế khẩn cấp đạn dược và thuốc men vào căn cứ "Delta"
để các chiến sĩ có thể bảo vệ căn cứ trong đêm nay. Nhưng trực thăng đã bị
hỏa lực phòng không của địch bắn rới ngoài đồn. Thấy thế, Paul Vann đã liều
lĩnh xử dụng trực thăng nhỏ, loại mới nhất của quân đội Hoa Kỳ, là OH58
Kiowa, chỉ có 2 chỗ ngồi để tiếp tế. Ðích thân ông lái máy bay còn Trung úy
Huỳnh Văn Cai, người được Tướng Ngô Du chỉ định làm sĩ quan tùy viên cho
Paul Vann, đạp từng thùng đạn, thùng thuốc xuống giữa căn cứ, mặc dù súng
phòng không địch đủ loại 14.5 ly, 12.7 ly bắn lên tới tấp. Bất chấp mọi
nguy hiểm, Paul Vann đã tiếp tế cho đơn vị Dù các chuyến đầy đủ dạn dược,
mìn chiếu sáng, thuốc men và nước uống, để đơn vị này có thể cầm cự với
địch quân đêm sắp tới. Chuẩn tướng Gerge Wear, Tư lịnh phó, và Ðại tá
Joseph Pizzi, Tham mưu trưởng của Paul Vann phải kêu lên:"Thật điên rồ !".
Tướng Ngô Du phải khâm phục hành động táo bạo của Paul Vann.
Kết quả, Sư đoàn 320 của CS bị thảm bị thảm bại nặng nề tại căn cứ "Delta".
Tướng Hoàng Minh Thảo phải bổ sung quân số cấp tốc cho sư đoàn này và sau
đó 10 ngày (14/4/1972) lại cho mở cuộc tấn công vào căn cứ "Charlie". Lần
này Lữ đoàn Dù do Trung Tá Nguyễn Ðình Bảo chỉ huy bị một hỏa tiễn 122 ly
trúng vào hầm chỉ huy làm Trung tá Bảo tử trận ngay giây phút đầu tiên.
Những sĩ qan còn lại của Trung tá Bảo thấy địch quá đông nên đã rút khỏi
căn cứ và bỏ xác Trung tá Bảo lại trong hầm.
Ngày 20/4/1972, tình hình tại Quảng Trị (Quân đoàn I) quá nặng, nên Ðại
tướng Viên phải rút Lữ đoàn Dù tại Kontum để tăng cường cho mặt trận Quảng
Trị. Tình hình quân sự tại mặt trận Tân Cảnh bắt đầu đen tối. Tướng Ngô Du
vô cùng lo lắng.
Ngày 28/4/1972, CS tấn công đồn này bằng 10 chiến xa T54, nhưng đã bị Paul
Vann điều động 2 trực thăng võ trang Cobra trang bị hỏa tiễn chống chiến
xa, được điều khiển bằng tia Laser bắn rất chính xác, tiêu diệt 5 chiến xa
T54 tại chỗ. 5 chiếc còn lại phải chạy trốn qua biên giới Lào. Sau đó ta
rút quân khỏi đồn này, vì vị trí quá xa và hẻo lánh.
Tướng Hoàng Minh Thảo thấy Lữ đoàn Dù đã rút, nên ông có kế hoạch tấn công
cấp tốc để dứt điểm Sư đoàn 22BB tại Tân Cảnh bằng Sư đoàn 320 và Sư đoàn 2
Sao Vàng bằng chiến xa T54 và hỏa tiễn Sagger do Liên Xô chế tạo. Chiến xa
T54 và hoả tiễn Sagger là 2 loại vũ khí tối tân được sử dụng lần đầu tiên
tại chiến trường Miền Nam trong Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972. T54 là loại chiến xa
bọc sắt cứng, dày, tương đương với chiến xa M48 của Hoa Kỳ. Hỏa tiễn Sagger
mà ta gọi là AT3, là loại hoả tiễn chống chiến xa bằng giâỵ Giống như hỏa
tiễn Tow của Mỹ, nhưng tầm xa kém (hỏa tiễn Tow tầm xa 3000; hoả tiễn
Sagger 200 m).
Trong những ngày 20, 21 và 22/4/1972, các sư đoàn địch áp sát bao vây Tân
Cảnh. Khi đã khám phá đầy đủ các vị trí của địch xuất hiện, tôi trình Tướng
Ngô Du phải diệt địch ngay bằng B52 theo như kế hoạch trước đây mà ông và
Paul Vann đã tính toán. Nhưng Paul Vann đã từ chối xử dụng B-52, vì trong
thâm ý, ông không muốn yểm trợ cho Ðại tá Lê Ðức Ðạt. Tướng Ngô Du nổi giận
la to:"Ông Paul Vann, ông là bạn hay là kẻ thù của tôi ?". Paul Vann làm
thinh bỏ đi. Ông dùng trực thăng bay xuống mặt Bắc Bình Ðịnh.
Thời gian này, mặt trận mặt Bắc Bình Ðịnh cũng rất sôi động. Tướng Ngô Du
chỉ dịnh Ðại tá Trần Hiếu Ðức, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 40 thuộc Sư
đoàn 22BB làm Tư lịnh chiến trường, chịu trách nhiệm bảo vệ 3 quận Hoài Ân,
Bồng Sơn và Tam Quan. Sư đoàn 2 Sao Vàng CS được lịnh phối hợp nhịp nhàng
với các mặt trận khác nên đã tung quân bao vây quận Hoài Ân. Tại đây, Paul
Vann cũng gây khó khăn cho Ðại tá Ðức về yểm trợ hỏa lực trong khi bị áp
lực nặng nề của địch. Ðại tá Ðức liền ra lịnh rút bỏ quận Hoài Ân để cố thủ
quận Bồng Sơn. Ngày 21/4/1972, Paul Vann bay lên Tân Cảnh thăm Ðại tá
Philip Kaplan, cố vấn cho Ðại tá Lê Ðức Ðạt. Tại hầm chỉ huy, mặc dù biết
Paul Vann không ưa thích, Ðại tá Ðạt vẫn trình bày đầy đủ chi tiết cho Paul
Vann rõ. Paul Vann đã có hành động thiếu lịch sự, ông chỉ mạnh vào bản đồ
và nói cộc lốc bằng giọng mũi:"Ðại tá Ðạt, ông sẽ là vị Tư lịnh Sư đoàn VN
đầu tiên làm mất Sư đoàn và bại trận". Ðại tá Ðạt rất tức giận, ông đã vứt
điếu thuốc đang hút xuống đất, cười gằn và bảo Paul Vann:"-, chuyện đó sẽ
không bao giờ xảy ra".
Ngày 23/4/1972, một Tiểu đoàn Bộ Binh của Sư đoàn 22 chạm súng với địch rất
sớm, không quá xa Bộ tư lịnh sư đoàn, đồng thời địch pháo kích tới tấp vào
căn cứ Tân Cảnh bằng hỏa tiễn 122 ly. Chiến xa bảo vệ Bộ tư lịnh của sư
đoàn của Ðại tá Ðạt gồm 10 chiếc được điều động ra để chống lại địch, đã bị
hỏa tiễn Sagger bắn cháy mất 8 chiếc, còn lại 2 chiếc thì bị đứt xích.
Người bạn rất thân với tôi trước đây tại Qui Nhơn là Thiếu tá Như cùng Ðại
úy Kenneth Yonan, 23 tuổi, xuất thân từ trường Wespoint, đã leo lên tháp
nước cao tại căn cứ, xử dụng đại liên 12.7 ly để tấn công địch, cũng bị hỏa
tiễn Sagger bắn, bồn nước nổ tung và cả hai người chết tại chỗ. Các đơn vị
của ta chạm súng suốt ngày với địch tại Tân Cảnh. Tướng Ngô Du sử dụng tối
đa hỏa lực không quân để yểm trợ cho Ðại tá Ðạt.
Khoảng 10g tối ngày 23/4/1972, quận Dakto cách Tân Cảnh 2 km về phía Bắc,
do Ðịa Pương Quân và Nghĩa Quân người Thượng bảo vệ, đã quan sát thấy đèn
của 11 chiến xa T54 đang tiến về hướng quận. Quân đoàn liền điều động C-130
Spectre lên tả trái sáng. Chiến sĩ ta trong các hầm chiến đấu cá nhân đã
thấy tất cả 15 chiếc chiến xa T54 của địch xếp hàng dọc chạy tiến về Tân
Cảnh. Phi cơ C-130 tác xạ để ngăn kông cho chiến xa địch tiến, nhưng vô
hiệu quả, vì loại phi cơ này không có loại đạn chống chiến xa.
Khoảng 2g sáng ngày 24/4/1972, 15 chiến xa địch đã bao vây căn cứ Tân Cảnh.
Ðại tá Philip Kaplan yêu cầu Paul Vann lên cứu ông vào lúc 4g khi trời chưa
sáng tại bãi đáp rất nhỏ bên cạnh bãi mìn. Ðại tá Kaplan cho Ðại tá Ðạt
biết và yêu cầu cùng lên trực tăng cấp cứu của Paul Vann nhưng Ðại tá Ðạt
từ chối. Ðại tá Ðạt biết tình hình rất bi đát, địch sẽ tràn ngập căn cứ vào
khoảng 7g sáng, nhưng ông không yêu cầu Tướng Ngô Du lên cứu như Ðại tá
Kaplan đã làm. Ông ra lịnh cho tất cả các sĩ quan và binh sĩ còn lại tìm
cách thoát ra ngoài trước khi trời sáng. Ðại tá Tôn Thất Hùng đã thoát được
nhưng bị thương; ông chạy vào một buôn Thượng gần đó. Nhờ nói được tiếng
Thượng rất rành, nên đã được một gia đình người Thượng che dấu và bảo vệ
ông, đưa ông về đến thị xã Kontum sau 15 ngày đi loanh quanh trong rừng. Ba
tháng sau, ông cùng gia đình lên Pleiku để đền ơn cho gia đình người Thượng
này đang sống trong trại tị nạn.
Ðại tá Lê Ðức Ðạt đã ở lại trong căn cứ Tân Cảnh. Theo lời Ðại tá Kaplan,
có lẽ Ðại tá Ðạt đã tự sát sau khi đồn Tân Cảnh bị Cộng quân tràn ngập. Ðó
là ngày 24/4/1972, lúc 10g sáng.
Tướng Ngô Du rất khổ tâm trong thời gian này. Ông bị xúc động khi được tin
Ðại tá Lê Ðức Ðạt tử trận. Những hy vọng thắng trận vinh quang mà ông ấp ủ
trong lòng trên 3 tháng nay đã tiêu tan và biến thành thảm bại cay đắng vì
có những bất đồng giữa ông và Paul Vann, và thành kiến không tốt đẹp của
Paul Vann đối với Ðại tá Lê Ðức Ðạt. Do đó, bịnh tim của ông bị tái phát.
Thông thường chiến thuật Cộng quân là thừa thắng xông lên. Do đó, chúng tôi
không loại bỏ giả thuyết Cộng quân sẽ đánh Kontum, vì nơi đây chỉ có Ðịa
Phương Quân và Nghĩa Quân trấn giữ. Tướng Ngô Du phải cho tái phối trí lực
lượng, điều động 2 Trung đoàn Bộ Binh từ Ban Mê Thuột lên cố thủ Kontum,
chỉ để lại một Trung đoàn phòng thủ 7 tỉnh phía Nam của Quân đoàn.
Ðại tá Lý Tòng Bá, Tư lịnh Sư đoàn 23BB, được chỉ định làm Tư lịnh mặt trận
Kontum. Tướng Ngô Du chỉ mong Tướng Hoàng Minh Thảo hoãn tấn công vào
Kontum 5 ngày thôi, thì ông và Ðại tá Lý Tòng Bá đủ thời gian phối trí quân
và đào công sự vững chắc phòng thủ thị xã này.
Ðường chuyển quân và tiếp vận chính giữa Pleiku - Kontum là Quốc lộ 14 rất
yên tĩnh trong 3 ngày đầu, đến ngày thứ tư thì Cộng quân chiếm và đóng chốt
đèo Chu Pao, giao thông bị gián đoạn. Rất may khi địch chiếm đèo Chu Pao
thì ta vừa chuyển quân xong. Cộng quân không tiến quân tiếp vào Kontum sau
5 ngày như Tướng Ngô Du dự tính mà đến 20 ngày sau. Như vậy, chúng ta có
thể tin rằng Sư đoàn 320 và Sư đoàn 2 của Cộng quân đã bị tổn thất khá nặng
trong các cuộc chạm súng trước đây với Lữ đoàn Dù và Sư đoàn 22BB. Các
chiến xa T54 của địch cũng bị tiêu hao một số tại phi trường Dakto do Không
quân VNC bắn cháy và một số tại đồn Ben Het do Cobra của Hoa Kỳ phá hủy. Vì
thế, Tướng Hoàng Minh Thảo cần có thời gian củng cố lại đơn vị của ông chớ
không thể mở cuộc tấn công mới ngay được.
Phối trí quân xong tại Kontum, Tướng Ngô Du ngã bịnh nặng, không ăn, không
ngũ. Tôi thấy ông ngày đêm ôm tim và nhăn nhó. Trước đó một ngày, ông đã
điện thoại Tổng thống Thiệu và yêu cầu Tổng thống đề cử người thay thế ông.
Tại Saigon, TT Thiệu và Ðại tướng Cao Văn Viên tham khảo ý kiến với nhiều
vị Trung tướng, nhưng không ông nào chịu lên làm Tư lịnh Quân đoàn II, vì
biết tình hình rất đen tối tại đây. Cuối cùng, TT Thiệu chọn Thiếu tướng
Nguyễn Văn Toàn, vì Tướng Toàn đồng ý tử thủ tại Kontum.
Ðại tá Lý Tòng Bá, người mà Paul Vann khẩn thiết yêu cầu Tướng Ngô Du đề
nghị TT Thiệu đề cử làm Tư lịnh Sư đoàn 23BB, nay đang nằm tại mặt trận
chính. Paul Vann làm việc tại Kontum với Ðại tá Lý Tòng Bá trong lúc chưa
có cố vấn của Sư đoàn. Paul Vann nhớ đến Ðại tá Rhotenberry là người làm cố
vấn cho Ðại tá Bá tại Bình Dương. Khi đưa Ðại tá Rhotenberry đến Kontum,
Paul Vann nói:"Ông và tôi phải hết sức yểm trợ Ðại tá Bá vì tôi đã hứa với
Ðại tướng Abrams là không để mất Kontum. Nếu mất Kontum, thì Kissinger,
Trưởng phái đoàn Hoa Kỳ tại Hoà đàm Paris, sẽ gặp nhiều khó khăn".
Sau khi nghe tường trình về tình hình, ông chỉ thị Ðại tá Vĩnh Phúc, Trưởng
phòng IV Quân đoàn, ra làm việc tại phi trường Kontum tiếp nhận vũ khí và
đạn dược từ Saigon không vận ra.Thời gian này phi trường Kontum luôn luôn
bị pháo kíc bằng hỏa tiễn 122 ly, nên có một vài phi cơ C-130 tiếp vận của
ta đã bị trúng đạn bốc cháy.
Tướng Toàn kêu Trưởng phòng II cùng với ông lên Kontum. Tôi liền cầm bản đồ
theo ông lên trực thăng của Tư lịnh. Trên trực thăng chỉ huỵ chỉ có ông và
tôi cùng sĩ quan Ðại úy tùy viên. Tôi thấy Tướng Toàn rất lo âu, mồ hôi nhễ
nhại, mặc dù khí hậu Cao nguyên không nóng. Ông hỏi tôi:"Anh cho tôi biết,
chúng ta có đủ khả năng giữ vững được Kontum không ?". Thời gian bay lên
Kontum chỉ 20' nên tôi phải trả lời ông rất ngắn gọn. Căn cứ theo các
chuyện đã xảy ra tại mặt trận Tân Cảnh, tôi tính toán kỹ và nói:"Thưa Thiếu
tướng, ta có thể giữ được, mặc dù quân địch có đến 3 sư đoàn (Sư đoàn 320,
Sư đoàn 2 và Sư đoàn 968), ta chỉ có một (Sư đoàn 23BB). Ðiều kiện là Thiếu
tướng và cố vấn Paul Vann phải thảo luận với nhau không có gì trục trặc xảy
ra. Ðại tá Lý Tòng Bá là người quen rất thân với Paul Vann đang ở lại mặt
trận nên sẽ được Paul Vann giúp đỡ tận tình". Sau này tôi mới biết câu trả
lời của tôi đã trùng hợp với lời khuyên của Ðại tướng Cao Văn Viên trước
khi Tướng Toàn đi nhận chức:"Ông lên trên đó phải chiều cố vấn Paul Vann
mới xong được".
Ðến Kontum, Ðại tá Lý Tòng Bá và Ðại tá Rhotenberry hướng dẫn Tướng Toàn
thăm tuyến đầu bảo vệ Kontum về phía Bắc 5 km. Tại đây, các sĩ quan các cấp
và các binh sĩ Sư đoàn 23BB, mỗi người một chiêc xẻng cá nhân, đang hăng
say đào công sự phòng thủ. Tướng Toàn vui vẻ an ủi, khích lệ và nhắc nhủ
mọi người phải cố gắng chuẩn bị chiến đấu, quyết tâm tử thủ, không để CS
chiếm một tấc đất nào tại Kontum. Ông chỉ thị cho Ðại tá Lý Tòng Bá và các
Trung đoàn trưởng, Tiểu đoàn trưởng phải chọn một số binh sĩ can đảm để
thành lập ngay các tổ chống chiến xa bằng súng M72 Law, cho các binh sĩ này
thực tập tác xạ vào các chiến xa hư của ta vào ngày kế để họ tin tưởng rằng
vũ khí M72 Law của Mỹ có thể tiêu diệt được các chiến xa T54 của Cộng quân.
Ông cho Ðại tá Bá biết ông sẽ cho không vận trung đoàn còn lại của Sư đoàn
23BB tại Ban Mê Thuột lên Kontum để Ðại tá Bá có đầy đủ quân số và thống
nhất chỉ huy. Về hành chánh, Tướng Toàn chỉ thị Ðại tá Nguyễn Bá Long tự
Thìn, Tỉnh trưởng Kontum, phải lo trấn an và ủy lạo dân, làm cho họ tin
tuởng vào chính phủ và quân đội. Khuyến khích dân chúng phải hết sức ủng hộ
Quân đoàn để tử thủ.
Trở về Pleiku, Tướng Toàn bàn ngay với cố vấn Paul Vann nhiều giờ về kế
hoạch bảo vệ Kontum. Sau đó, ông chỉ thị Ðại tá Hoàng, Tham mưu phó Chiến
Tranh Chính trị Quân đoàn xử dụng phi cơ C47 của ông đi Phan Thiết và
Saigon mua cá tươi và xoài tượng đem lên phân phát cho các binh sĩ tại
Kontum để bữa ăn có thêm chất tươi.
Về hành quân, Tướng Toàn chỉ thị Trung tá Nguyễn Ðức Dung chỉ huy Lữ đoàn 2
Thiết Giáp với một Liên đoàn Biệt Ðộng Quân tăng cường phải đem các chiến
xa lên Kontum bằng mọi giá. Ông nói rằng không cần thanh toán các lực lượng
địch chốt tại đèo Chu Pao mất thời giờ, phải mở Quốc lộ 14bis vòng quanh
sau lưng địch để đi; ông chỉ thị trong 3 ngày phải thực hiện xong cuộc hành
quân này. Cuộc hành quân của Trung tá Dung gặp rất nhiều khó khăn vì sức
kháng cự của Cộng quân rất mãnh liệt. Nhưng với quyết tâm thi hành đúng chỉ
thị của Tư lịnh Quân đoàn, Lữ đoàn 2 Thiết Giáp và Biệt Ðộng Quân đã thanh
toán và đè bẹp các lực lượng của Cộng quân, mở được Quốc lộ 14bis quanh đèo
Chu Pao đem nhiều chiến xa lên mặt trận Kontum đúng ngày N+3. Ðoàn xe thiết
giáp và Biệt Ðộng Quân qua cầu Dak-Bla tiến vào Kontum, đồng bào trong thị
xã chạy ra xem rất đông, nồng nhiệt chào mừng và hoan hô vang trời. Ðây là
chuyện chưa từng có trước đây. Tướng Toàn gắn cấp bậc Ðại tá tại mặt trận
cho Trung tá Nguyễn Ðức Dung ở đầu cầu Dak-Bla.
Tính đến ngày thứ ba, kể từ ngày nhận chức, Tướng Toàn đã tăng cường cho
Ðại tá Lý Tòng Bá Bá một Trung đoàn Bộ Binh, một Liên đoàn Biệt Ðộng Quân,
trên 20 chiếc xa thiết giáp, nhiều đạn dược, nguyên liệu, và thuốc men mới
được không vận từ Saigon lên. Số đạn dược và nhiên liệu này đủ để bảo đảm
cho các đơn vị tại Kontum phòng thủ trong thời gian một tháng. Tình hình
Kontum bắt đầu sôi động. Các hỏa tiễn 122 ly của địch cứ đều đều rót vào
các căn cứ quân sự và phi trường Kontum làm tinh thần dân và quân luôn luôn
bị căng thẳng.
Về tình báo, Tướng Toàn chỉ thị tôi phải báo cáo cho ông biết trước ngày
giờ Cộng quân tấn công vào Kontum và làm gấp kế hoạc trải thãm B52 phía Bắc
tuyến đầu của ta để ông và Paul Vann áp dụng kế hoạch khi địch tấn công.
Hôm sau, tôi trình lên ông kế hoạch 100 "Box" B52 (mỗi Box chiều dài 3 km,
chiều ngang một km) chận đứng các mũi tấn công và tiêu diệt các ổ phòng
không của địch, căn cứ vào địa hình, địa vật và tin tức bằng không ảnh.
Tướng Toàn và Paul Vann đã chấp thuận hoàn toàn ý kiến của tôi.
Ngày 13/5/72, nhân viên kỹ thuật báo cáo đã bắt được mật điện của B3. Trong
mật điện này, Bộ tư lịnh B3 CS đã ra lịnh như sau:"Mũi tấn công hướng Bắc -
Sư đoàn 2 - Stop - Tăng cường mỗi sư đoàn 10 T54 - Stop - Ngày giờ tấn công
hướng Tây Bắc Sư đoàn 320 - Stop - Ngày giờ tấn công 05g00 ngày 14/5/72 -
Stop". Tôi vội vàng trình ngay tin này cho Tướng Toàn. Ðọc xong mật điện,
ông liền bảo tôi theo ông lên Kontum.
Trong giao thông của tuyến đầu, Tướng Toàn và Ðại tá Lý Tòng Bá đi từng hầm
để nhắn nhủ từng binh sĩ hãy can đảm nằm yên tại chỗ khi địch tấn công.
Tướng Toàn nói:"Khi địch nổ súng thì sẽ có B52 thả ngay trên đầu địch. Các
em phải chịu khó bịt tai lại và hả miệng để bớt áp lực của bom nổ". Áp lực
của bom sẽ rất lớn đối với các binh sĩ của ta vì theo kế hoạch đã vạch sẵn,
B52 sẽ thả bom sát quân ta, ở mức an toàn là 500m thay vì 1000m như thường
lệ.
Tại hầm chỉ huy Sư đoàn 23, Tướng Toàn, Paul Vann, Ðại tá Bá, Ðại tá
Rhotenberry nghiên cứu trên bản đồ và thảo luận vị trí từng Box B52 sẽ dội
bom xuống và thời gian dội. Paul Vann gọi máy yêu cầu Trung tướng chỉ huy
Không quân chiến lược Hoa Kỳ (Strategic Air Command) tại Thái Lan để thảo
luận với ông về thể tức chuyển đổi các Box B52 cho thật hợp với tình hình
mặt trận dưới đất. Paul Vann cũng điện đàm với Ðại tướng Abrams tại Saigon
khẩn khoản cho ông được xử dụng hết tất cả 25 Box B52 dành để yểm trợ cho 4
vùng chiến thuật trong ngày 14/5/72, để Quân đoàn II có thể tiêu địch tối
đa. Ðề nghị này được Ðại tướng Abrams chấp thuận. Ðêm 13 rạng 14/2/72,
Tướng Toàn, Paul Vann và 2 Bộ tham mưu Việt - Mỹ đều thức suốt đêm theo dõi
tình hình từng phút và hồi hộp chờ đợi. Phi đoàn A37 của Sư đoàn 6 Không
quân tại Pleiku túc trực 100%. Chiếc trực thăng của Chuẩn tướng John Hill,
Tư lịnh phó của Paul Vann cấp tốc gắn 2 đại liên 12.7 ly bên hông và các xạ
thủ luôn túc trực ở trực tăng. Tướng John Hill đang nghĩ dưỡng sức ở Cam
Ranh để chờ ngày về nước, cũng đã tình nguyện ở lại để giúp Paul Vann đối
phó với CS tại mặt trận Kontum. Nhiều cặp phi cơ trực thăng võ trang Cobra
của Hoa Kỳ đã ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu kể từ 12g đêm. 2 đoàn B52
cất cánh từ đảo Guam và Sattahip ở Thái Lan đã cất cánh và xuất hiện trên
bầu trời biển Thái Bình Dương. Tất cả hồi hộp cờ đợi giờ G (tức 5g00 sáng).
Kém 5 phút đến 5g, Ðại tá Bá báo cáo trên máy rất lớn, địch đã bắt đầu nổ
súng. Trực thăng của Chuẩn tướng John Hill với 2 đại liên 12.7 ly cất cánh
đầu tiên, tiếp theo là trực thăng của Paul Vann và sau cùng là trực thăng
chỉ huy của Tướng Toàn bay về hướng Kontum trong sương mù. Paul Vann ra
lịnh cho phi hành đoàn B52 vào vùng đúng 5g ngày 14/2/72. Tất cả 25 Box B52
đồng loạt bấm nút thả xuống trên 3000 quả bom đủ loại, từ 100 lbs đến 500
lbs, trên đầu Sư đoàn 320 và Sư đoàn 2 của Cộng quân, tiếng nổ long trời lỡ
đất, khói bụi bay mịt mù. Diện tích trải thảm của các B52 là 75 km2. Tiếp
theo từng đoàn A37 và AD6 của Sư đoàn 6 Không quân VNCH bay vào mục tiêu
tiếp tục bắn vào các chiến xa và các ổ phòng không địch. Vì bị áp lực quá
mạnh của bom, nhiều đoàn quân của Cộng quân bị ngất ngư, đã hốt hoảng chạy
lui về phía sau, lại bị trực thăng của Chuẩn tướng John Hill và trực thăng
võ trang Cobra bọc hậu thanh toán rất nhiều.
Tại tuyến đầu, 9 chiến xa T54 của địch nằm ngoài khu ném bom của B52 đã hốt
hoảng lao vào phía ta và đã bị các chiến xa của ta bắn cháy mất 6 chiếc. 3
chiếc còn lại bỏ chạy, nhưng vì các chiến binh của Cộng quân điều khiển các
xe này đã bị sức dội quá mạnh của B52, không còn chủ động được, nên các bin
sĩ của ta đã nhào ra bắt sống. Một giờ sau, Tướng Toàn và Paul Vann bay vào
vùng thả bom B52 để kiểm soát thì thấy rất nhiều xác của Cộng quân trong
các hố bom, không thể đếm hết được. Paul Vann thấy một số Cộng quân đang
lảo đảo đi trong các hố bom B52, đã hạ thấp trực thăng xuống cho Trung úy
Huỳnh Văn Cai, Trung úy tùy viên, dùng M16 thanh toán.
Không quân ta và Không quân Hoa Kỳ tiếp tục thanh toán tàn quân và các ổ
phòng không địch trong vùng suốt ngày 14/5/72. Trong các cuộc oanh kích
này, Không quân ta bị thiệt mất một AD6 do Thiếu tá Phạm Thặng làm hoa
tiêu. Phòng không địch đã bắn trúng chiếc phi cơ do Thiếu tá Thặng lái
khiến ông bị tử thương và chiếc phi cơ rớt ở phía Nam Kontum (Thiếu tá Phạm
Thặng là anh ruột của Ðại úy Phạm Thục, hoa tiêu trực thăng, là em rể tôi).
Kế hoạch trải thảm B52 đã dứt điểm cuộc tấn công đầu tiên của 2 sư đoàn
Cộng quân vào Kontum. Trong trận này, chắc chắn Tướng Hoàng Minh Thảo, Tư
lịnh mặt trận B3, đã phải ôm hận vì đã gặp phải một đối thủ nguy hiểm là
Tướng Toàn, một vị tướng có nhiều kinh nghiệm khi điều khiển chiến trường.
Theo ước tính về phía Hoa Kỳ, trong cuộc tấn công này, địch đã thiệt mất
1000 người và 20 chiến xa T54. Quân ta đã thắng trận đầu. Các chiến xa T54
của địch mà ta đã bắt sống được mang về triển lãm tại Saigon. Sau trận đánh
này, các binh sĩ VNCH đã đặt tên cho Paul Vann là "ông B52".
Cuối cùng CS đại bại tại Kontum
Thị xã Kontum được xây cất bên cạnh bờ sông Dak-Bla nằm về hướng Bắc. Sông
Dakbla uốn quanh như con rồng rất đẹp và cảnh 2 bên bờ sông rất thơ mộng,
nước sông chảy mạnh từ hướng Ðông qua hướng Tâỵ Dân số Kontum độ 25,000
người, cả Kinh lẫn Thượng, đa số sinh sống trong thị xã và các vùng phụ cận
thị xã. Khoảng 70% dân theo đạo Thiên Chúa. Vì thế, Toà Giám mục giáo phận
Kontum (gồm Kontum và Pleiku) đã được đặt ở số 44 Trần Hưng Ðạo, Kontum, do
Ðức cha Seitz, một giáo sĩ thừa sai người Pháp làm Giám mục. Ông nói và
viết thông thạo cả tiếng Việt lẫn tiếng Thượng. Ông đã bị Cộng quân trục
xuất sau 30/4/75.
Kế hoạch phòng thủ Kontum được giao cho Sư đoàn 23BB của Ðại tá Lý Tòng Bá.
Sư đoàn này có nhiệm vụ đảm trách 3 mặt nặng nhất của tỉnh là Ðông, Tây và
Bắc. Hướng Nam có phần nhẹ hơn nhờ có chướng ngại vật của thiên nhiên là
con sông Dakbla, nên giao cho Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân đảm nhiệm.
Sự thảm bại cay đắng trong trận ngày 14/5/72, Tướng Hoàng Minh Thảo và Cộng
quân đã phải kiểm thảo rất chu đáo để rút kinh nghiệm. một câu hỏi quan
trọng đã được Tướng Hoàng Minh Thảo đặt ra: Tại sao đối phương biết rõ được
lực lượng và ngày giờ Cộng quân sẽ tấn công để xử dụng B52 ồ ạt ? Tướng
Thảo đoán rằng có thể kỹ thuật rà bắt điện đài của đối phương rất cao nên
đã bắt được tất cả những mật lịnh mà Bộ tư lịnh B3 của ông đã đánh đi.
Rút kinh nghiệm, ông không xử dụng điện đài nữa mà xử dùng điện thoại và
người để liên lạc. Vì thế, sau ngày 14/5/72, cả toán kỹ thuật của Quân đoàn
II đều ngạc nhiên không thấy địch lên máy nữa. Tôi làm phúc trình lên Tướng
Toàn về sự việc này và ước tính địch còn khả năng tấn công ta vài đợt nữa
trong những ngày sắp tới. Quân đoàn nên cẩn thận, không nên khinh địch. Tôi
đã liên lạc với ông Archer, Trưởng toán Tình báo của Toà Ðại sứ Hoa Kỳ và
mượn được 2 máy nghe lén điện thoại. Loại máy này rất tối tân, chỉ nhỏ bằng
nắm tay, ta chỉ cần đâm vào dây điện thoại của địch bằng một cây kim rồi
cắm máy chui vào bụi cây cách nơi cắm vài trăm thước cũng nghe được các
cuộc điện đàm của địch. Tôi liền cho các biệt kích lọt vào các khu hậu cần
của địch, xử dụng máy điện thám nghe lén điện thoại của địch, nhưng chưa
ghi nhận được điều gì quan trọng.
Ðúng 5g sáng, Tướng Toàn được báo cáo về cuộc tấn công này, ông đã hối hả
chạy vào Quân đoàn. Vừa gặp tôi ông liền quát tháo om sòm và dọa đưa tôi ra
Tòa án Quân sự. Ông hỏi:"Tại sao để cho đặc công Cộng quân vào chiếm thị xã
Kontum mà không hay biết ?". Tôi nghiêm người đứng chịu trận. Biết nói gì
bây giờ? Binh sĩ ta hời hợt, mới thắng một trận mà đã khinh dịch. Cấp chỉ
huy của ta thiếu đôn đốc và kiểm soát. Cộng quân rất tinh ranh, chúng biết
được yếu điểm của ta nên đã lợi dụng địa hình địa vật xử dụng đặc công len
lỏi vào thị xã bằng hướng phòng thủ yếu nhất.
Lúc 6g sáng ngày 20/5/72, Tướng Toàn và tôi bay lên Kontum. Trên trực
thăng, tôi không dám nhìn thẳng vào ông vì biết ông đang nóng giận và lo
âu. Ðến Bộ Chỉ huy của Ðại tá Lý Tòng Bá, chúng tôi thấy nơi đây đang bị
pháo kích nên trực thăng phải tìm cách lượn quanh tránh đạn mới đáp xuống
được. Trực thăng vừa đáp xuống thì chúng tôi thấy Ðại tá Bá và Bộ Tham mưu
của ông đang hốt hoảng chạy ra khỏi hầm chỉ huy và hình như đang muốn di
chuyển đi nơi khác. Mặc dù tiếng đại liên và AK47 nổ chát chúa rất gần,
Tướng Toàn vẫn bình tĩnh nói lớn với Ðại tá Bá:"Tử thủ, ông và tôi không
chết nơi đây đâu! Không chạy đi đâu hết". Ông yêu cầu Ðại tá Bá cho biết
tình hình như thế nào. Ðại tá Bá chỉ vào khu nghĩa địa của thành phố cách
hầm chỉ huy của ông độ 300 m và cho biết một đại đội đặc công của địch đang
cố thủ ở đó. Ông đã xử dụng một đại đội trinh sát tinh nhuệ nhất của sư
đoàn vào nằm chiếm lại khu vực này nhưng gặp sự kháng cự rất mãnh liệt, 2
chiến xa bị cháy, đại đội trinh sát không tiến lên được.
Tướng Toàn bảo đưa máy cho ông chỉ huy và chỉ thị trong máy:
- Tư lịnh Quân đoàn ra lịnh! Bằng mọi giá phải thanh toán sạch đặc công
Cộng quân đó. Tôi đang đứng đằng sau các anh và chờ kết quả".
Bên kia đầu máy trả lời:
- Nghe lịnh ! Tin Mặt Trời rõ ! Tôi đang thi hành !
Tiếng đại liên trên 3 chiến xa đang nổ dòn trong khu nghĩa địa.
Trong khi đặc công tràn vào thành phố, Chuẩn tướng John Hill dùng trực
thăng có gắn 2 khẩu đại liên 12.7 ly bay quan sát vùng Võ Ðịnh (Bắc Kontum
15 km) và thấy nhiều đơn vị Cộng quân di chuyển về hướng Nam, ông liền tác
xạ liên tục và báo cho Paul Vann biết để xử dụng B52. Ngay hôm đó, Paul
Vann đã xử dụng trên 10 Box B52 để làm giảm áp lực của địch. Thiếu Tướng
Toàn quan sát mặt trận và chỉ thị thêm cho Ðại tá Bá đề phòng tuyến đầu vì
địch có ý định tấn công phía trước trong khi ta đang bấn loạn bên trong.
Sau một giờ đánh nhau ác liệt với đặc công của địch, Ðại đội trưởng Trinh
Sát báo cáo trong máy:
- Trình Mặt Trời ! Tôi đã thanh toán xong đặc công tại khu nghĩa địa.
Tướng Toàn đáp:
- Tốt ! Tôi sẽ thưởng công cho anh !
Ðại tá Nguyễn Bá Long tự Thìn, Tỉnh trưởng Kontum, chạy qua trình diện
Tướng Toàn đã bị xỉ vả một trận tơi bời. Sau đó, Tướng Toàn bảo Ðại tá Long
cùng ông lên xe chạy thẳng vào khu Tòa Giám mục và nói:"Có gì ông chết tôi
cũng chết". Ðại tá Long hướng dẫn Tướng Toàn đến quan sát các ổ kháng cự
của đặc công Cộng quân trong các tòa nhà được xây cất kiên cố từ thời Pháp
trong khu Tòa Giám mục, đang chống trả với Ðịa Phương Quân. Tướng Toàn liền
tăng cường cho Ðại tá Long 5 chiến xa, một Liên doàn Biệt Ðộng Quân, và chỉ
thị nếu cần phải bắn sập một vài tòa nhà trong khu Tòa Giám mục để tiêu
diệt đặc công thì cứ làm, sau này chính phủ sẽ xây cất lại, nhưng phải cố
gắng đừng gây thiệt hại về nhân mạng cho dân chúng đang ở trong khu. Hai
ngày sau, Ðại tá Bá và Ðại tá Long mới thanh toán sạch sẽ ca'c lực lượng
đặc công Cộng quân trong thành phố. Bên ta thiệt hại nhẹ.
Như mọi người trong thị xã Kontum đều biết, tại đây có cô gái lai Pháp rất
xinh đẹp và dễ hương tên Lucie, cô là chủ một tiệm sách nằm giữa thị xã,
các sĩ quan trẻ tuổi thường đến mua sách và trò chuyện đùa giỡn với cô. Ðại
tá Long, Tỉnh trưởng Kontum, khi đi kiểm soát vùng cũng vài lần ghé lại
tiệm sách này để "thăm dân cho biết sự tình". Không biết ai đã báo cáo lại
chuyện này với bà Long tại Saigon, bà liền cấp tốc tìm phương tiện bay lên
Kontum này và chạy vào Tòa Hành chánh tỉnh la lối om sòm, đập nát kính
chiếc xe Toyota của Ðại tá Tỉnh trưởng. Bị mất mặt, Ðại tá Long lôi bà về
tư thất đánh cho một trận và bắt bà phải trở về lại Saigon.
Năm 1970, khi Ðại tá Long làm Tỉnh trưởng tỉnh Tuyên Ðức kiêm Thị trưởng Ðà
Lạt, bà Thủ tướng Khiêm thường hay lên đây nghỉ mát, nên bà Long có dịp
tiếp xúc và chuyện trò với bà Khiêm. Nhờ sự quen biết đó nên khi về tới
Saigon, bà Long đã chạy ngay vào nhà bà Khiêm khóc lóc, vạch lưng vạch ngực
cho bà Khiêm xem các dấu vết đánh của Ðại tá Long. Phụ nữ thường hay bênh
nhau, nên bà Khiêm đã chở bà Long sang gặp bà Thiệu để trình bày mọi
chuyện.
Nghe bà Long kể lể, bà Thiệu xúc động liền yêu cầu TT Thiệu cách chức Ðại
tá Long. Hôm sau, Quân đoàn nhận được mật điện của TT Thiệu chỉ thị Tư lịnh
Quân đoàn II đề cử một sĩ quan khác giữ chức vụ Tỉnh trưởng Kontum thay thế
Ðại tá Nguyễn Bá Long trong 24 giờ. Lý do sẽ cho biết sau.
Trong trận chiến Kontum, Ðại tá Long là người có chiến công. Trực thăng chỉ
huy của Ðại tá Long đã một lần bị địch bắn rơi, nhưng rất may ông không
chết và được cứu thoát. Tôi được biết Ðại tá Long đã cưới bà này làm vợ
trong một hoàn cảnh đặc biệt, vì lòng nhân đạo hơn là vì tình. Nhưng nay,
vì một sự ghen tương nhãm nhí của bà vợ và sự nóng giận không kềm chế của
Ðại tá Long đã làm cho ông thân bại danh liệt. Năm 1974, Ðại tá Long bị
giải ngũ. Sau 30/4/75, Ðại tá Long phải đi học tập cải tạo và bị chuyển ra
Bắc. Ông là Ðại tá Quân lực VNCH đầu tiên chết trong trại cải tạo tại miền
Bắc. VC bắt ông phải đi gánh nước hàng ngày, ông bị té bể xương chậu (xương
mông) và nằm đau đớn cho tới chết vì cán bộ trại giam không cho ông thuốc
men hay đưa đi bệnh xá để cứu chữa. Ðại tá Nguyễn Bá Long tự Thìn đã tốt
ngiệp khóa 8 Sĩ Quan Ðà Lạt và đậu thủ khoa. Ông là một sĩ quan rất giỏi về
cả tham mưu lẫn tác chiến.
Tôi làm tờ trình ước tính tình báo lên Tướng Toàn và Paul Vann là địch còn
khả năng tấn công ta đợt 3 trong vòng 10 ngày tới. Sư đoàn 968 trừ bị của
mặt trận B3 của Tướng Hoàng Minh Thảo còn chưa ra quân. Ước tín mức độ và
cường độ đợt 3 yếu hơn đợt 1. Tướng Toàn và Paul Vann tiếp tục nghiên cứu
và xử dụng kế hoạc 100 Box B52 mà tôi đã trình khi Tướng Toàn mới nhận
chức. Paul Van có uy tín với Ðại tướng Abrams nên được xử dụng nhiều Box
B52 hơn các Quân đoàn khác.
Ðúng 5g sáng ngày 28/5/72, Cộng quân tấn công đợt 3 vào Kontum bằng 3 mũi
chính:
- Mũi một từ hướng Bắc do lực lượng Sư đoàn 2 Cộng quân.
- Mũi 2 từ hướng Tây Bắc do lực lượng Sư đoàn 320.
- Mũi 3 từ hướng Nam do lực lượng Sư đoàn 968.
Trong đợt tấn công này địch không dùng chiến xa T54.
Mũi một và 2 đã gặp sự kháng cự mãnh liệt của các chiến sĩ can trường của
Sư đoàn 23BB. Ðịch đã xung phong nhiều đợt để cố chiếm tuyến phòng thủ đầu
của ta nhưng đều bị đẩy lui.Phi cơ chiến đấu của Sư đoàn 6 Không Quân tại
Pleiku xuất trận liên tục để yểm trợ quân ta tại tuyến đầu.
Mũi 3 do lực lượng Sư đoàn 968, một lực lượng trừ bị của Tướng Hoàng Minh
Thảo phụ trách. Lực lượng này mới tham gia trận Kontum lần đầu, chưa nếm
mùi B52 nên khí thế có vẻ mạnh hơn mũi 1 và 2.
Sông Dakbla bọc quanh phía Nam thị xã là một chướng ngại vật thiên nhiên
ngăn chặn không cho địch tiến quân một các dễ dàng. Sư đoàn 968 cố gắng
vượt sông nhưng bị các phòng tuyến của Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân ngăn
chặn. Paul Vann đã xử dụng các phi tuần của Không Quân Hoa Kỳ cất cánh từ
Thái Lan trợ chiến, sau đó ông mới gọi các phi vụ B52 đến trải thảm.
Trong ngày 28/5/72 này, Paul Vann cũng đã được Ðại tướng Abrams cấp hết 25
Box B52 cho mặt trận Kontum. hai bên quần thảo nhau suốt ngày; đến tối địch
vẫn không chiếm được vị trí nào của ta. Tướng Hoàng Min Thảo thấy không thể
kéo dài cuộc tấn công vì sợ B52 đến dội bom, đã ra lịnh rút lui thật nhanh.
Tại cuộc Hoà đàm Ba Lê, có lẽ Lê Ðức Thọ cũng điên đầu vì Cộng quân chưa
tạo được một chiến thắng quân sự nào tại Kontum, Quảng Trị hay Bình Long để
yểm trợ yêu sách với Kissinger. Trận chiến Kontum kéo dài đến 3 tháng (3,
4, 5/72) mà Cộng quân chẳng những không chiếm được vị trí nào mà còn bị
thiệt mất một số quân khá lớn. Theo ước tính của giới chức quân sự Hoa Kỳ,
trong trận đán kéo dài này, mặt trận B3 của Tướng Hoàng Minh Thảo bị thiệt
mất khoảng một sư đoàn rưỡi, 30 chiến xa T54 và nhiều đại pháo, phòng không
bị thiêu hủy. Sau trận này, Sư đoàn 2 Sao Vàng của Cộng quân đã hoàn toàn
bị xóa tên.
Kontum đáng mặt kiêu hùng,
Ngày 31/5/72, TT Thiệu lên Kontum ủy lạo binh sĩ và gắn cấp bậc Chuẩn tướng
cho Ðại tá Lý Tòng Bá.
2. Tướng Ngô Du và cố vấn John Paul Vann
John Paul Vann, Trung tá Bộ Binh làm cố vấn Sư đoàn 7BB tại vùng IV từ năm
1962-1963. Sau đó, ông về Hoa Kỳ, xin giải ngũ để tiếp tục đại học. Ðến năm
1966, ông sang VN trở lại và làm cố vấn dân sự cho các chương trình bình
định và phát triển. Tướng Ngô Du rất tâm đắc với Paul Vann về kế hoạch bình
định phát triển tại vùng IV trước đây. John Paul Vann thông minh, can đảm,
hiếu thắng, kiêu căng, tự phụ và thích làm anh hùng cá nhân. Sau khi Tướng
Ngô Du được bổ nhiệm Tư lịnh Quân đoàn II thì Paul Vann cũng muốn chức vụ
cố vấn Quân đoàn II, mặc dù ông là dân sự. Dịp may đến với Paul Vann: Tháng
4/1971, quân đội Hoa Kỳ tham chiến tại VN phải giảm quân số, từ 543,500
xuống còn 270,000 quân. Vị tướng đang làm cố vấn cho Tướng Ngô Du cũng được
lịnh về Mỹ trong đợt giảm quân này. Paul Vann liền nắm cơ hội hiếm có, vận
động ngầm vơi Tướng Ngô Du xin Hoa Kỳ bổ nhiệm Paul Vann làm cố vấn Quân
đoàn II.
3. Tin tình báo Hoa Kỳ
Tháng 12/1971, tôi đang làm việc tại văn phòng, Ðại tá Cahn, cố vấn tình
báo của tôi, đến mời tôi qua văn phòng cố vấn Paul Vann (cũng ở tại Bộ tư
lịnh Quân đoàn, gần văn phòng Tướng Ngô Du) để thảo luận tình hình. Mở đầu,
ông Vann hỏi tôi:
4. Tung màng lưới tình báo điện tử vào tháng 1/1972
Tôi cho thả rất nhiều chùm điện tử (được ngụy trang như những cây nhỏ trong
rừng) trên đường mòn Hồ Chí Minh để báo động khi có người đi quạ Các máy
điện tử đều hướng về Mật khu 609, nơi trú quân của Tướng Hoàng Minh Thảo,
Tư lịnh Mặt trận B3 của CS tại vùng Attopeu (Nam Lào) để dò bắt các mật
điện của Bộ tư lịnh này.
5. Kế hoạch tiêu diệt Sư đoàn 320 bằng B-52 của Tướng Ngô Du và John Paul
Vann
Tướng Ngô Du và Paul Vann không muốn các đơn vị bộ binh VNCH tiến sâu vào
các mật khu kiên cố đầy rừng núi hiểm trở để tiêu diệt địch như Tướng
Westmoreland đã làm trước đây trong chiếc dịch "Tìm và Diệt". Năm 1967, Lữ
đoàn 173 Nhảy Dù và Sư đoàn 4 Hoa Kỳ đã thiệt mất 287 người và trên 1000
người bị thương tại Mật khu 609 của Tướng Hoàng Minh Thảo, nhưng Tướng
Westmoreland tuyên bố chiến thắng tại Hoa Thịnh Ðốn. Paul Vann muốn bắt
chước Tướng Walton Walker trong kế hoạch đánh bại quân Bắc Triều Tiên năm
1953. Vì thế, 2 ông đã đưa ra kế hoạch dụ Sư đoàn 320 tiến sâu vào trong
lãnh thổ Quân đoàn II (vùng Tân Cảnh - Dakto thuộc Kontum) để tiêu diệt
toàn bộ sư đoàn thiện chiến này bằng pháo đài bay B-52.
6. Những trục trặc đáng tiếc
7. Mặt trận bùng nổ
Theo tin tức khai thác được của các tù binh CS thì mặt trận sẽ bùng nổ lớn
vào trung tuần tháng 3/1972, nhưng Hà Nội đã ra lịnh cho Tướng Hoàng Minh
Thảo tấn công vào đầu tháng 4/1972 để phối hợp nhịp nhàng với các mặt trận
khác tại Quân đoàn I (Quảng Trị) và Quân đoàn III (Bình Long).
8. Không tin nhưng phải làm
9. Ðại tá Lê Ðức Ðạt, Tư lịnh Sư đoàn 22BB và John Paul Vann
Ai cứu Kontum trong cơn hấp hối?
* Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn và Quân đoàn II
* Tướng Hoàng Minh Thảo của CS bị thảm bại trong đợt đầu tấn công vào
Kontum
* Vinh nhục trong ngành tình báo
* Anh hùng và mỹ nhân
* Kontum kiêu hùng
Sánh vai Quảng Trị so cùng Bình Long.
Trịnh Tiếu