CUỘC RÚT QUÂN TRÊN ĐƯỜNG SỐ 7 Ngày 17 Tháng 3 Năm 1975
(và những hệ lụy sau đó) Phạm Bá Hoa * * * * * Dẫn
chuyện. Sau khi tỉnh Phước
Long vào tay quân cộng sản ngày 7/1/1975, thủ phủ Ban
Mê Thuột và tỉnh Darlac thất thủ ngày 11/3/1975, t́nh
h́nh chiến sự Quân Đoàn II/Quân Khu II trở nên sôi
động. Xin nhớ là Thỏa Hiệp Ngưng Bắn
đă kư tại Paris ngày 27/1/1975 và hạ tuần tháng 3/1975
là có hiệu lực. Do vậy mà bầu không khí chính
trị cũng sôi động không kém t́nh h́nh quân sự.
Lúc
bấy giờ các vị lănh đạo quốc gia và lănh
đạo quân đội liên quan đến những
phản ứng sau đó, là: -
Tổng Thống: Nguyễn Văn Thiệu (Trung
Tướng). - Thủ Tướng: Trần
Thiện Khiêm (Đại Tướng). - Tổng Tham Mưu
Trưởng: Đại Tướng Cao Văn Viên. - Tham Mưu Trưởng
Bộ Tổng Tham Mưu, kiêm Tổng Cục
Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận: Trung
Tướng Đồng Văn Khuyên. Ông được
phép đưa thân phụ sang Tokyo chữa bệnh ung
thư, nên không có mặt từ lúc đầu cuộc rút
quân. Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng Cục Phó,
xử lư thường vụ chức vụ Tổng
Cục Trưởng. - Tư Lệnh Quân Đoàn
II/Quân Khu II: Thiếu Tướng Phạm Văn Phú. - Chỉ Huy Trưởng
Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận (Qui Nhơn): Đại
Tá Bửu Khương. - Tham Mưu Trưởng Quân
Đoàn II, Đại Tá Lê Khắc Lư. Lúc bấy giờ tôi là Tham
Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận. Vào
chuyện. Ngày 14/3/1975, một buổi họp quan
trọng tại Cam Ranh dưới quyền chủ
tọa của Tổng Thống, nhưng người
bạn tôi ở Phủ Thủ Tướng không rơ nội
dung mà chỉ áng chừng là vạch kế hoạch
phản công chiếm lại Ban Mê Thuột. Rất
tiếc là Trung Tướng Đồng Văn Khuyên
chưa về, nên tôi với Đại Tá Phạm Kỳ
Loan không biết ǵ hơn. Ngày 15/3/1975, ngay đầu giờ
buổi làm chiều, điện thoại reo: - Đại Tá Hoa tôi nghe - - Có ai ngồi gần anh không?
- - Dạ không, thưa
Đại Tướng - Đó là Đại
Tướng Cao Văn Viên. Ông tiếp: - Tuyệt đối là anh
không cho ai biết lệnh này ngoài những sĩ quan trách
nhiệm thi hành - - Vâng, tôi rơ thưa Đại
Tướng - - Tổng Cục Tiếp
Vận có bao
nhiêu phi cơ vận tải C.130 khả dụng? - - Thông thường th́ sử
dụng 2 hoặc 3 chiếc, nhưng trường hợp
tối cần thiết có thể sử dụng
được 8 hoặc 9 chiếc. Nhưng tôi sẽ
hỏi bên Không Quân và sẽ tŕnh lại Đại Tướng
con số chính xác hơn, thưa Đại Tướng - - Thôi được.
Điều cần thiết là anh phải sử dụng
tối đa v́ đây là nhu cầu khẩn cấp. Anh liên
lạc ngay với Quân Đoàn II, xem họ cần bao nhiêu
chiếc th́ cho họ bấy nhiêu, c̣n sử dụng vào
công tác ǵ th́ tùy họ. Nhiệm vụ kể từ ngày
mai. Anh rơ chưa? - - Thưa Đại
Tướng, tôi rơ - - Phần anh, anh chuyển các
quân dụng đắt tiền ra khỏi Pleiku và muốn
đem về đâu th́ tùy anh- - Vâng. Tôi thi hành, thưa
Đại Tướng - Tôi thuật lại cho
Đại Tá Loan nghe, và cả Đại Tá Loan lẫn
tôi, đều không suy đoán được là chuyện
ǵ sắp xảy ra mà chúng tôi không được phép biết.
Nếu chuẩn bị đánh nhau với quân cộng
sản th́ tại sao không để quân dụng lại mà
thay thế số tổn thất? Nếu không đánh
nhau,..... mà không đánh nhau là thế nào? Thật không
hiểu nỗi! Tổ
chức một quân đội, phải có hai yếu
tố chính, là "con người và quân dụng". Quân
dụng do ngành Tiếp Vận quản trị. Những ǵ
trang bị cho mỗi quân nhân từ đỉnh
đầu xuống đến gót chân, từ dinh
dưỡng đến điều trị khi bị
thương hay đau yếu, vấn đề mai táng và
nghĩa trang, rồi doanh trại, phương tiện di
chuyển, rồi súng đạn, xe tăng thiết giáp,
đại bác hỏa tiển,...... đều là nhiệm
vụ của ngành Tiếp Vận. Ấy vậy mà Tiếp Vận
lại không được quyền biết đến
kế hoạch hành quân, ít nhất là đối với
lệnh vừa rồi của Đại Tướng
Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam
Cộng Ḥa ! Trong quân
đội, chỉ có Trung Tướng Đỗ Cao Trí và
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, là hai vị Tư
Lệnh đại đơn vị đặt Tiếp
vận vào đúng vị trí của ngành này mà thôi. Điển h́nh là Trung
Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn
III, đầu năm 1970, khi soạn kế hoạch hành
quân sang lănh thổ Cambodia tấn công các kho dự trữ
tiếp vận của quân cộng sản sát biên giới
Việt Nam, sau khi quyết định ngày N, Trung
Tướng Trí nêu câu hỏi với Trung Tá Trương
Bảy (sau này là Chuẩn Tướng Cảnh Sát) Chỉ
Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 3 Tiếp Vận: - Theo kế hoạch hành quân
như đă tŕnh bày, Tiếp Vận có chuẩn bị
kịp không? Nếu không, Quân Đoàn sẽ lùi ngày
lại". Khi vị Tư Lệnh
hỏi như vậy, cho dù chuẩn bị gấp rút cách
mấy cũng phải thực hiện cho xong chớ
đâu thể xin lùi ngày được. Đằng nào
cũng phải vất vă, nhưng vất vă mà
được biết đến vẫn vui ḷng hơn. Trước khi lên Pleiku
nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn II, Thiếu
Tướng Phạm Văn Phú điện thoại tôi: - Anh Hoa à, tôi sắp sửa lên
Quân Đoàn II, anh cho tôi mượn Trung Úy Thiêm một
tuần để nó lên đó chọn hướng
đặt bàn giấy giùm tôi nghe anh- - Vâng. Tôi sẽ nói với anh
Thiêm và Thiếu Tướng cứ liên lạc trực
tiếp với anh ấy về
những chi tiết cần thiết - Lúc bấy giờ tôi là Cục
Trưởng Cục Măi Dịch (đồn trú ở Sài
G̣n), và trong đơn vị tôi có Trung Úy Nguyễn Xuân Thiêm
được nhiều người cho là giỏi
tướng số tử vi và chữ kư. Và sau 5 ngày công tác
riêng cho Thiếu Tướng Phú ở Plei Ku trở
về, Trung úy Thiêm nói
với tôi: - Thưa Đại Tá, tôi
thấy vận số của Thiếu Tướng Phú
hết rồi, nhiều lắm cũng chỉ tính
bằng tháng chớ không tính bằng năm đâu - - Anh có nói ǵ với Thiếu
Tướng Phú không?- - Dạ không. V́ sợ ổng
mất tinh thần. Với lại có nói ra cũng không có
cách ǵ giải được, thà không nói vẫn hơn - - Nghî như anh cũng phải
- (Năm 1990, tôi được
biết Trung Úy Nguyễn Xuân
Thiêm định cư tại Australia ) Tôi nhớ, có
một hôm Trung Tướng Đồng Văn Khuyên nói
với tôi rằng, "Thiếu Tướng Phú tuổi
con rắn, nên Tổng Thống cử lên Quân Đoàn II v́
rắn thích hợp với núi rừng". Trở
lại lệnh của Đại Tướng Tổng
Tham Mưu Trưởng. Tôi gọi lên Plei Ku liên lạc
với Đại Tá Lê Khắc Lư, Tham Mưu Trưởng
Quân Đoàn II: - Tôi Hoa đây anh Lư. Tôi
được lệnh
cấp C.130 cho anh nhưng không được
biết là Quân Đoàn sử dụng vào công tác ǵ. Vậy
anh có thể cho tôi biết để tôi tiện sắp
xếp phi cơ theo đúng nhu cầu của anh không ? V́
chắc anh cũng biết
là số phi cơ khả dụng của chúng tôi giới
hạn lắm - - Anh cứ đưa lên
đây cho tôi, c̣n sử dụng vào công tác ǵ th́ không thể
nói được đâu- Lời của Đại Tá
Lư. - Đành vậy. Nhưng anh
cần bao nhiêu chiếc?
Cần vào lúc nào? Và chuyển vận từ đâu
tới đâu? - Anh có bao nhiêu chiếc th́
đưa lên tôi bấy nhiêu, và kể từ sáng mai
(16/3/1975). Không tŕnh có thể
là từ Plei Ku đến Nha Trang hoặc Sàig̣n - - Vậy th́ như thế này.
Sáng mai tôi cho lên anh 2 chiếc, trong khi 2 chiếc kế
tiếp túc trực tại phi trường Tân Sơn
Nhất và anh cần là cất cánh ngay, v́ một lúc anh
đâu sử dụng được 4 chiếc.
Được không? - - Được. 8 giờ sáng
mai anh cho có mặt tại phi trường Cù Hanh nghe - - Xong. Ḿnh thỏa thuận
như vậy nhé - Tôi tŕnh Đại Tá Loan là
vẫn không biết được ǵ thêm ở Quân
Đoàn II. Đại Tá Loan hỏi Chuẩn Tướng
Trần Đ́nh Thọ, Trưởng Pḥng 3/Bộ Tổng
Tham Mưu, Chuẩn Tướng Thọ cũng không tiết lộ
điều ǵ. Bên Không Quân xác nhận là có thể sử
dụng tối đa 9 chiếc C.130, nhưng sau khi sử
dụng như vậy th́ các nhu cầu tiếp theo không
thể thực hiện được ít nhất là
một tuần v́ phải tu bổ lại. Bộ Chỉ
Huy Không Chiến, cơ quan điều động phi
cơ, đồng ư về thỏa thuận giữa tôi
với Đại Tá Lư, nghĩa là 2 chiếc C130 cất
cánh lên Pleiku th́ 2 chiếc kế tiếp túc trực
tại căn cứ Tân Sơn Nhất. Sáng ngày 16/3/1975, Bộ Chỉ Huy Không
Chiến điện thoại tôi: - Tŕnh Đại Tá,
trưởng phi cơ C.130 đang trên không phận phi
trường Cù Hanh (Plei Ku), cho biết là không thể nào
đáp xuống phi trường được, v́ người
ta đông không thể tưởng tượng nỗi.
Chẳng biết là
chuyện ǵ xảy ra v́ không liên lạc được
dưới đất. Và hai chiếc C.130 đang chờ
lệnh Đại Tá đó - - Anh chuyển đến
Trưởng phi cơ, hăy chờ tôi vài phút để tôi liên lạc với Quân
Đoàn xem t́nh h́nh ra sao đă - Gọi Quân Đoàn II và tôi nói
chuyện với Đại Tá Lư: - Phi cơ tôi đang trên không
phận của anh đó, nhưng không thể đáp
được. Nếu anh muốn họ đáp xuống
th́ anh phải giải toả sân bay giùm đi v́ nếu
chậm quá th́ họ sẽ về lại Sài G̣n đó. Mà
chuyện ǵ xảy ra vậy Anh? - - Tại v́ người ta tranh
nhau chờ lên phi cơ mới có chuyện tràn ngập
đường băng như vậy. Để tôi cho
Quân Cảnh giải toả, anh bảo phi cơ đáp
xuống cho tôi đi - - Th́ phi hành đoàn đang
chờ đường băng trống là đáp
xuống, trừ khi anh không giải toả nỗi. Anh
nhớ ưu tiên cho Trung Tá Thời, Liên Đoàn
Trưởng Yểm Trợ Tiếp Vận của tôi
ở Plei Ku, chở một số kiện hàng quan
trọng xuống Qui Nhơn hoặc Nha Trang à nghe - Tôi lại nhờ Bộ
Chỉ Huy Không Chiến chuyển đến phi hành
đoàn C.130. Và sau đó, phi cơ đáp xuống
được tuy rất khó khăn v́ đông nghẹt người
là người hai bên đường băng. Để
rồi một h́nh ảnh hỗn loạn chưa từng
thấy -theo lời thuật của Trưởng phi
cơ- là cả một
rừng người chen lấn xô đẩy, thậm chí
đạp lên nhau để tranh lên phi cơ, và hết
sức khó khăn đến độ nguy hiểm, phi
hành đoàn mới cho phi cơ cất cánh được. Hóa ra là Bộ Tư Lệnh
Quân Đoàn chuyển xuống Nha Trang. Tôi tŕnh ngay cho
Đại Tá Loan v́ ước tính là sắp đánh nhau
với quân cộng sản rồi. Ước tính này không
phải là vô căn cứ, bởi v́ cộng sản đă
chiếm thủ phủ Cao Nguyên, bây giờ chúng tấn
công vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II cũng là
điều có thể xảy ra lắm chớ. Nhưng chúng tôi nhầm ... V́ sáng ngày 17/3/1975, trong lúc 2
chiếc C.130 trên không phận Plei Ku th́ điện
thoại nhà tôi reo, hôm nay là chủ nhật nên tôi đi làm
muộn: -
Đại Tá Hoa tôi nghe - - Bộ Chỉ Huy Không Chiến
đây Đại Tá. Trưởng phi cơ cho biết là
toàn thị xă Plei Ku hôm nay không có một bóng sinh vật nào
cả, và bây giờ phi hành đoàn xin phép về lại
căn cứ - - Anh hỏi lại phi hành đoàn
giùm tôi, nếu sự thực hoàn toàn đúng như
vậy th́ tôi đồng ư phi cơ quay về. Xin nhớ,
đây là trách nhiệm rất quan trọng nghe anh - Tôi điện thoại qua nhà
Đại Tá Phạm Kỳ Loan, và ngay sau đó
Đại Tá Loan liên lạc Chuẩn Tướng Trần
Đ́nh Thọ (Trưởng Pḥng 3/Bộ Tổng Tham Mưu)
nhưng Chuẩn Tướng Thọ vẫn không nhỏ
được một giọt thông tin nào về t́nh h́nh
đó cả. Tôi và Đại Tá Loan tức lắm,
nhưng chúng tôi không có cách nào khác v́ Trung Tướng Khuyên
đi Tokyo chưa về. Có vẻ như chúng tôi bị coi
như là những sî quan không đáng tin cậy th́ phải,
ít nhất cũng là không được tin cậy trong
cuộc hành quân này, dù rằng Đại Tá Loan đang là
cấp chỉ huy cao nhất của ngành Tiếp Vận
với gần 100.000 quân nhân công chức chuyên ngành và
quản trị một khối lượng dụng
cụ chiến tranh trên dưới 7 tỉ mỹ kim! Tất
cả các hệ thống liên lạc truyền tin bằng
vô tuyến lẫn hữu tuyến của quân đội,
cũng như hệ thống liên lạc bên hành chánh,
đều không liên lạc được với bất
cứ cơ quan đơn vị nào ở Plei Ku cả.
Đại Tá Bửu Khương (ở Qui nhơn)
cũng không có tin tức ǵ khá hơn trong khi đoàn quân xa
hơn 100 chiếc của Liên Đoàn 2 Vận Tải
vẫn c̣n kẹt trên Plei Ku v́ quốc lộ 19 nối
liền Qui Nhơn - Plei Ku bị quân cộng sản
chiếm giữ nhiều chặng. Một t́nh h́nh không
thể hiểu nỗi ít nhất là đối với
ngành Tiếp Vận chúng tôi. Không biết tại sao lúc
ấy chúng tôi không nghĩ đến giả thuyết nào
khác, chẳng hạn như Quân Đoàn II vờ rút quân ra
ngoài để thành phố bỏ ngỏ cho q6an cộng
sản tiến vào, và bất th́nh ĺnh quật lại
tấn công chúng ngay trong thành phố. C̣n về giả thuyết rút bỏ Cao
Nguyên th́ nhất thiết không thể có trong tư
tưởng của bất cứ sĩ quan nào chớ
chẳng riêng ǵ chúng tôi. Cho dù một giả thuyết
như vậy thôi cũng không có trong hàng sĩ quan cấp
dưới, nhưng nó lại là một kế hoạch
thật sự của hàng sĩ quan cấp Tướng
lănh đạo đất nước 20.000.000 dân, trong
đó có một quân
đội hơn 1.000.000 người! Cả hai chúng tôi -Đại
Tá Loan và tôi- không thông báo t́nh
h́nh tệ hại đó cho bộ tham mưu Tổng
Cục Tiếp Vận biết, trong khi chúng tôi hết
sức lo lắng cho tất cả quân nhân nói chung và
số phận của anh em trong ngành Tiếp Vận ở
Plei Ku và Kon Tum nói riêng, v́ chúng tôi không có bất cứ
một thông tin nào về t́nh h́nh đó, kể cả
nguồn cung cấp chính xác nhất là vị Tướng
Trưởng Pḥng 3 ngang hàng với cơ quan chúng tôi, và
vị Tổng Tham Mưu Trưởng cấp trên của
chúng tôi cũng vậy. Chiều 18/3/1975, điện thoại reo: -
Đại Tá Hoa tôi nghe - - Khương đây anh Hoa-
Đó là Đại Tá Bửu Khương, Chỉ Huy
Trưởng Bộ Chỉ Huy 2 Tiếp Vận,
đồn trú tại Qui Nhơn. - Anh có tin ǵ về anh em ḿnh trên Plei Ku chưa? - - Liên Đoàn 2 Vận Tải
mới liên lạc vô tuyến với đoàn xe bị
kẹt trên Plei Ku rồi anh.
Đoàn xe này đang cùng với hằng ngàn quân xa và dân xa
rút bỏ Plei Ku và Kon Tum, đang di chuyển trên
đường liên tỉnh số 7 để xuống
Tuy Ḥa. Toàn bộ lực lượng gồm nhiều
đơn vị chiến đấu, cùng với Pháo Binh,
Thiết Giáp, bị sa
lầy sau khi vượt qua Cheo Reo. Phần th́ đường hư cầu
sập làm nhiều chiến xa M.48 và đại bác 175
cơ động lật xuống hố, phần th́ các
đơn vị cộng sản tấn công nhiều
mặt, đă gây tổn thất nặng cho cả quân
đội lẫn dân sự nhưng chưa thấy
phản ứng của Quân Đoàn. Anh em mất tinh
thần lắm anh ơi! - - Được rồi.
Bảo vệ đoàn quân và khi nào xuống đến Tuy
Hoà, chắc chắn là trách nhiệm của Quân Đoàn. Bây
giờ anh nên chuẩn bị tổ chức nhiều toán
do một sî quan của Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận
chỉ huy và đặt tại Tuy Hoà, mỗi toán phụ
trách một công tác,
để khi đoàn quân xuống đến Tuy Ḥa th́ cấp
phát ngay cho bất cứ đơn vị nào mà không cần theo thủ
tục tiếp liệu thông thường, chỉ cần
viết tay và kư nhận là đủ. Hàng mang theo cấp
phát là: Lương khô đủ ăn 3 ngày, 1 bộ
quần áo trận, đổ đầy xăng dầu
cho xe chạy bánh và xe chạy xích. Toán Quân Y th́ cấp thuốc cho các
bệnh thông thường và cấp cứu đầu
tiên. Anh thấy được không? - - Được anh.
Để tôi lo - - Anh nói Liên Đoàn 2 Vận
Tải ráng giữ liên lạc và khi có bất cứ tin
tức ǵ về đoàn quân này th́ anh cho tôi biết ngay nghe
anh Khương- Sở dĩ có đoàn xe
hằng trăm chiếc bị kẹt ở Plei Ku, là v́
sau khi Phước Long mất, Trung Tướng
Đồng Văn Khuyên ra lệnh cho tôi thực hiện kế
hoạch chuyển tiếp liệu loại 1 (lương
thực thực phẩm), loại 3 (nhiên liệu),
loại 5 (đạn dược chất nổ), lên Plei
Ku dự trữ cho 20.000 quân pḥng thủ trong 30 ngày mới
bổ sung. Do vậy mà hằng ngày đoàn xe cả
trăm chiếc đi đi về về giữa Qui
Nhơn với Plei Ku để vận chuyển tiếp
liệu từ Qui Nhơn lên Plei Ku. Tôi sang văn pḥng Đại
Tá Loan, và sau đó tôi điện thoại lên Đại
Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng: - Tôi Hoa đây anh Nguyện
(Đại Tá Nguyễn Kỳ Nguyện, chánh văn pḥng),
anh cho tôi tŕnh vấn đề gấp với Đại
Tướng - - Anh chờ tôi một chút
- - Tôi đây. Anh có chuyện ǵ
vậy? - - Thưa Đại
Tướng, tôi Hoa đây - - Có việc ǵ vậy? - - Vài phút cách đây, Đại
Tá Bửu Khương, Chỉ Huy Trưởng Bộ
Chỉ Huy 2 Tiếp Vận, cho tôi biết về đoàn quân rút bỏ Plei
Ku và Kon Tum đang bị sa lầy ... (tôi thuật lại
chi tiết mà tôi và Đại Tá Khương đă nói
với nhau). - Anh có chắc là đúng
như vậy không? - - Từ chổ đoàn xe
bị kẹt đến Đại Tá Khương như
thế nào th́ tôi không dám chắc, nhưng từ
Đại Tá Khương đến tôi là hoàn toàn chính xác,
thưa Đại Tướng - - Thôi được. Anh
đừng nói với ai nữa nghe - - Vâng - Đại Tá Loan và tôi
đều ngẩn ngơ về câu sau cùng của
Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng.
Chúng tôi ngẩn ngơ v́ không hiểu tại sao t́nh h́nh
đến như vậy mà vẫn muốn giấu kín
chúng tôi nữa! Vài phút sau đó, Chuẩn Tướng
Trần Đ́nh Thọ điện thoại tôi: - Cưng ơi (Chuẩn
Tướng Thọ thường gọi tôi như
vậy), cưng có liên lạc với đoàn xe trên
đường số 7 hả? - - Tôi không trực tiếp liên
lạc nhưng Liên Đoàn 2 Vận Tải của chúng tôi
đă liên lạc được với đoàn xe chở
tiếp liệu lên Plei Ku và bị kẹt trên đó, nay th́ cùng trong đoàn
quân sa lầy mà vừa
rồi tôi đă tŕnh Đại Tướng - - Có. Đại Tướng
mới gọi anh đây. Cưng cứ biết vậy
thôi nghe - Tôi có biết chút ít về
đường liên tỉnh số 7 này, từ
đoạn Plei Ku vào đến Cheo Reo và xuống
đến Cung Sơn. V́ cuối năm 1955 -lúc bấy giờ tôi đang là
Thiếu Úy, Đại Đội Trưởng thuộc
Tiểu Đoàn Khinh Quân 510- toàn bộ Tiểu Đoàn chúng
tôi cùng với Tiểu Đoàn Khinh Quân 507 và 527, di
chuyển từ Vỉnh Long lên Cao Nguyên và đồn trú
tại Cheo Reo, để thành lập Trung Đoàn 35 Bộ
Binh trong hệ thống tổ chức Sư Đoàn Khinh
Chiến 12. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn đồn
trú tại Plei Ku. Các Tiểu Đoàn được
cấp phiên hiệu như sau: Tiểu Đoàn 507 thành
Tiểu Đoàn 1/35, Tiểu Đoàn 510 chúng tôi thành
Tiểu Đoàn 2/35, và Tiểu Đoàn 527 thành Tiểu
Đoàn 3/35. V́ các đơn vị
yểm trợ tiếp
liệu và hành chánh tài chánh đồn trú ở Plei Ku, nên
chúng tôi thường xuyên đi lại giữa Cheo Reo với
Plei Ku bằng đường liên tỉnh số 7 và
một đoạn quốc lộ 14. Sở dĩ
đoạn đường từ ngă ba quốc lộ 14
với liên tỉnh lộ 7 -tên địa phương là
Mỹ Thạch- vào đến Cheo Reo c̣n sử dụng
được, là v́ trong chiến tranh giữa thực dân
Pháp với cộng sản 1945-1954 (lúc đó cộng
sản núp dưới tên Việt Minh), Cheo Reo là cứ
điểm quân sự của Pháp, nên đường này được tu
bổ v́ nó là "con
đường huyết mạch" của cứ
điểm. C̣n đoạn từ Cheo Reo xuống Cung
Sơn và Tuy Hoà, quân đội Pháp không sử dụng nên
không tu bổ ǵ cả. Khi Trung Đoàn chúng tôi đến
Cheo Reo, th́ xác những chiếc thiết giáp của Pháp c̣n
ngổn ngang tại đó, c̣n chiếc cầu bắc ngang
Sông Ba th́ tồi tệ hơn bất cứ chiếc
cầu tồi tệ nào. Thuở ấy "rất là hoà
b́nh", nên chúng tôi thường đi săn trên
đường từ Cheo Reo
xuống đến Cung Sơn, chỉ cần
thận trọng một chút th́ xe jeep vẫn ḅ qua
chiếc cầu tồi tệ ấy được. Trên
đoạn đường này, chiếc xe jeep của
chúng tôi chỉ gọi là "ḅ" chớ không thể
gọi là chạy được v́ mặt
đường giữa vùng rừng già heo hút này hầu
như không c̣n ǵ để gọi là con đường
nữa. Giữa năm 1969, lúc ấy
tôi là Đại Tá, tháp tùng Trung Tướng Nguyễn
Văn Là, đến thăm các đơn vị tại
Cheo Reo và các quận lân cận, con đường bên kia
Sông Ba được tu bổ đôi chút. Và nếu
đoạn đường tiếp nối xuống Cung
Sơn để ra Tuy Hoà (tỉnh Phú Yên) không
được tu bổ thường xuyên, mà Quân Đoàn
II quyết định sử dụng cho đoàn quân hơn
10.000 người cùng với trên dưới 2.000 quân xa,
dân xa, và chiến xa hạng nặng triệt thoái, quả
là tạo được bất ngờ đối
với địch, nhưng phải nói là quá liều
lĩnh! Bất ngờ, nhưng con đường có
sử dụng được hay không, lại là vấn
đề trước mặt của Quân Đoàn II nói
chung, và của bộ chỉ huy hành quân cuộc hành quân lui
binh này nói riêng. Chiều tối hôm sau th́ Trung
Tướng Đồng Văn Khuyên từ Tokyo (Nhật
Bản) về đến. Sau khi nghe chúng tôi tŕnh bày về
t́nh h́nh từ ngày ông vắng mặt đến nay, ông nói
sáng mai sẽ tŕnh diện Tổng Thống với
Đại Tướng (Tổng Tham Mưu Trưởng),
chắc là sẽ có tin tức rơ ràng hơn. Và đây là những tin tức
đó: "Sau khi mất Ban Mê
Thuột, áp lực của quân cộng sản rất
mạnh. Tổng Thống nhận định là không
đủ khả năng bảo vệ toàn bộ Cao Nguyên
trong khi Ban Mê Thuột cần giữ hơn là Plei ku
với Kon Tum, v́ vậy mà Tổng Thống trong buổi
họp tại Cam Ranh, đă quyết định rút
bỏ Plei Ku, Kon Tum, Phú Bổn, để đem lực
lượng về phản công lấy lại Ban Mê
Thuột. Tổng Thống giao cho Thiếu Tướng
Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, nhiệm
vụ thực hiện cuộc hành quân triệt thoái
khỏi 3 tỉnh đó, nhưng phải giữ bí mật
tối đa và bảo vệ toàn vẹn lực
lượng (có lẽ v́ bảo mật tối đa mà
Tổng Cục Tiếp Vận chúng tôi không
được cho biết ǵ cả). Thiếu
Tướng Phú tŕnh kế hoạch là rút theo
đường liên tỉnh số 7, dù rằng con
đường này không sử dụng từ lâu nhưng
đạt được yếu tố bất ngờ
đối với lực lượng cộng sản.
Thiếu Tướng Phú đề nghị Tổng
Thống thăng cấp Chuẩn Tướng cho
Đại Tá Phạm Duy Tất, và Chuẩn Tướng
Tất sẽ là Chỉ Huy Trưởng cuộc hành quân
lui binh này. Lời đề nghị được
Tổng Thống chấp thuận tại chổ". Lúc bấy giờ, Đại
Tá Phạm Duy Tất đang là Chỉ Huy Trưởng
Biệt Động Quân/Quân Đoàn II. Hết giờ buổi
chiều khá lâu, bộ tham mưu Tổng Cục Tiếp
Vận chỉ c̣n nhân viên trực hoạt động.
Trung Tướng Khuyên gọi tôi lên văn pḥng (ông
ngồi ở văn pḥng Tham Mưu Trưởng/Bộ
Tổng Tham Mưu, trên ṭa nhà chánh), và ông đưa tôi xem một
xấp không ảnh (ảnh chụp từ trên phi cơ)
đă được giải đoán đầy
đủ. Toàn bộ xấp không ảnh cho thấy
đoàn xe không phải theo một h́nh dài mà là một h́nh
gần như tṛn, v́ khi phần đi đầu bị
kẹt th́ những chiếc sau cứ lấn qua bên trái hay
bên phải với hy vọng t́m được lối
đi, nhưng càng lấn vào rừng th́ càng không lối
thoát, và cứ như thế mà cả đoàn xe quá nhiều đó đă tạo
nên dáng như vậy. Ghi chú bên cạnh những khoanh tṛn
bằng ng̣i bút của chuyên viên giải đoán không
ảnh, có gần 800 xe đă bị thiêu hủy. Nếu như
giải đoán viên không ảnh chính xác hay ít ra cũng
gần như vậy, th́ chỉ mới 4 ngày dấn thân
vào đường liên tỉnh số 7 mà số xe bị
tổn thất trên dưới 1/3 trong tổng số xe
các loại, quả là rất nặng. Trong số tổn
thất đó có Tiểu Đoàn Pháo Binh 175 ly cơ
động và Trung Đoàn Chiến Xa hạng nặng
M48". Đây là hai loại vũ khí mới
được Hoa Kỳ viện trợ năm 1973
bằng cách các đơn vị pháo binh và xe tăng
của họ chỉ rút người về nước và
để toàn bộ chiến cụ đó lại cho quân
đội chúng ta. Những bài học chiến
thuật trong trường Vơ Bị cũng như
trường Đại Học Quân Sự (hậu thân
của Viện Nghiên Cứu Quân Sự Đông Dương
của Pháp và là tiền thân của trường Chỉ
Huy Tham Mưu Cao Cấp) đều thừa nhận
rằng, trong các cuộc hành quân th́ hành quân rút lui (hay
triệt thoái, hay lui binh) là nhiều hiểm nguy hơn các
cuộc hành quân khác, v́ đơn vị "đưa
lưng" về phía địch. Khi tấn công th́
trước mặt là địch và sau lưng là hậu
tuyến, c̣n trong rút lui th́
trước mặt lại là hậu tuyến mà sau
lưng trở thành tiền tuyến. Nguy hiểm là
vậy. Nguyên tắc căn bản của bài học
"lui binh" là phải có một lực lượng
hành quân giao tiếp để bảo đảm an toàn phía
trước mặt (hậu tuyến), c̣n lực
lượng lui binh th́ tự bảo vệ phía sau lưng
(tiền tuyến), ngoài ra phải được Không Quân
quan sát và yểm trợ hỏa lực nữa. Với cuộc hành quân giao
tiếp chậm chạp từ Tuy Ḥa lên, đoàn quân
triệt thoái ngày càng tan tác trên đường lui binh vô
cùng hỗn loạn v́ bị quân Việt cộng liên
tục phục kích, tập kích. Khi về đến Tuy
Hoà th́ tổn thất đến nỗi không c̣n khả
năng thực hiện kế hoạch phản công
chiếm lại Ban Mê Thuột được nữa.
Số dân thường bị chết dọc
đường nhiều không kém số thương vong
của quân đội. Chết v́ súng đạn, chết
v́ xe cộ tranh giành lối đi mà gây tai nạn bừa
băi, chết v́ tranh nhau miếng ăn nước uống,
chết v́ cướp giật, ..v..v.. Rút bỏ 3 tỉnh Cao Nguyên là
Plei Ku, Kon Tum, và Phú Bổn, những tưởng bảo
toàn được lực lượng gồm một
phần của Sư Đoàn 23 Bộ Binh, các Liên Đoàn
Biệt Động Quân, Pháo Binh, Thiết Giáp, Công Binh,
Truyền Tin, và các ngành khác, để phản công
chiếm lại thủ phủ Ban Mê Thuột, nhưng
rồi toàn bộ Cao Nguyên miền Trung bỗng dưng
rơi vào tay quân cộng sản một cách nhẹ nhàng.
Tôi nói "bỗng dưng", v́ rút bỏ Plei Ku từ
đêm thứ bảy 16 rạng ngày chủ nhật 17/3, mà
đến 3 giờ 15 phút chiều thứ tư 20/3/75 tín
hiệu của Truyền Tin tại Bộ Tư Lệnh
Quân Đoàn II mới ngưng hoạt động.
Đại Tá Cục Trưởng Cục Truyền Tin nói
với tôi như vậy. Điều này có thể là lúc
đó quân cộng sản mới tiến đến và phá
hủy máy móc hoặc tắt máy, cũng có thể là quân
cộng sản chưa chiếm nhưng v́ máy phát
điện hết nhiên liệu nên cả hệ thống
đều ngưng hoạt động. Cho dù ở vào
trường hợp nào đi nữa, th́ rơ ràng là quân
cộng sản mà ḿnh tưởng nó bao vây hay sắp
sửa bao vây Plei Ku, nhưng thật ra chúng c̣n ở
tận đâu đâu nên măi 4 ngày sau -đó là thời gian
sớm nhất- chúng mới vào chiếm Bộ Tư
Lệnh Quân Đoàn, trong khi những Sư Đoàn của
chúng ở càng xa Plei Ku về hướng Nam và Đông Nam
th́ khoảng cách càng gần với đoàn quân triệt
thoái hơn, do dó mà thiệt hại của đoàn quân
nặng nề chưa từng thấy trong hơn 20 năm
chiến tranh! Một thất bại vô cùng đau
đớn cho những người cầm súng, nhất là
những người cầm súng dưới quyền chỉ huy của vị Tư
Lệnh đă từng xông pha trận mạc. Thiếu
Tướng Phạm Văn Phú,
khi c̣n là sĩ quan cấp Úy cấp Tá trong hàng ngũ
quân đội Liên Hiệp Pháp lẫn trong quân lực
Việt Nam Cộng Ḥa,
đă có tiếng là cấp chỉ huy can đăm, không
lùi bước bất kể chiến trận gay go nghiêng
ngă như thế nào. Nay, với chức vụ Tư
Lệnh Quân Đoàn II, liệu có phải là hơi quá
tầm lănh đạo chỉ huy của ông không? Hay là
quyền lực hoặc khả năng của ông bị
điều ǵ đó giới hạn? Thiếu Tướng
Phạm Văn Phú đă tự tử ngay sau ngày 30/4/1975.
Tôi đến chùa Vĩnh Nghiêm (Sài G̣n) vào ngày 2/5/1975 và chào
tiễn biệt ông vào cơi vĩnh hằng giữa hoàn
cảnh đau thương của đất
nước, dân tộc!
Năm 1960, trong
thời gian tôi học tại Trường Đại
Học Quân Sự (hậu thân của Viện Nghiên Cứu
Quân Sự của Quân Đội Viễn Chinh Pháp), tôi
đọc được một tập tài liệu, có
nhận định rằng: "Trong chiến tranh
Việt Nam, ai chiếm giữ được Cao Nguyên
miền Trung th́ người dó sẽ nắm phần
chiến thắng". Chắc chắn rằng, những
vị Tướng của chúng ta đang nắm quyền
lănh đạo quốc gia và lănh đạo quân đội
đều biết tài liệu đó, nhưng có thể các
vị bị chính trị đẩy Cao Nguyên ra khỏi
tầm tay chăng? Ngược
ḍng thời gian, thượng tuần tháng 5/1954,
Điện Biên Phủ do 13.000 quân của Pháp trấn
giữ, đă thất thủ làm rúng động toàn
bộ quân viển chinh Pháp tại Đông Dương và
rúng động cả nước Pháp. Và hiển nhiên là
sự thất trận này đă đưa nước Pháp
đến t́nh trạng mất toàn bộ Đông
Dương gồm Việt Nam, Cam Bốt, và Lào. Hơn 20
năm sau -tháng 3/1975- toàn bộ Cao Nguyên miền Trung vào tay quân cộng sản, làm
rúng động toàn quân và toàn dân Việt Nam Cộng Ḥa. Và
liệu sự thất bại này có phải là nguyên nhân
dẫn đến toàn bộ Việt Nam Cộng Ḥa vào tay
quân cộng sản từ ngày cuối tháng 4/1975 không? Dù ǵ
đi nữa th́ sự thể đă là như vậy
rồi! T́nh trạng hỗn loạn bi
đát trong cuộc hành quân lui binh trên đường liên
tỉnh số 7, nếu chưa phải là nguyên nhân chính,
cũng là khởi đầu cho sự hỗn loạn
trong các cuộc hành quân lui binh của các Sư đoàn 1, 2,
3, 22, 23 Bộ Binh, Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục
Chiến, Biệt Động Quân, Hải Quân, Không Quân,
dọc các tỉnh duyên hải từ Quảng Trị ,
Huế, Đà Nẳng, đến Quảng Nam, Quảng
Tín, Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên, Khánh Ḥa, Cam Ranh. Trước ngày cuối tháng
3/1975, th́ từ Quảng Trị đến Cam Ranh
đều bỏ ngỏ. Tôi nói "bỏ ngỏ" v́
không có Tiểu Khu nào hay Trung Đoàn, Sư Đoàn, Quân
Đoàn nào, pḥng thủ chống lại quân cộng
sản, hoặc nếu có chống trả như Sư
Đoàn 3 Bộ Binh tại sườn Tây Đà Nẳng
cũng chỉ trong thời
gian ngắn ngủi là rút lui, c̣n lại là rút đi
trước khi quân cộng sản đến! Trong số những vị
Tướng Tư Lệnh đại đơn vị
thuộc Quân Đoàn I và Quân Đoàn II rút khỏi khu trách
nhiệm của những vị đó, tôi luôn tự hỏi
về thái độ của Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân khu I. Tôi
được tiếp xúc với ông qua những công tác
"chống đảo chánh" từ năm 1965 khi ông
là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Nhẩy Dù. Chính v́
hiểu ông mà tôi tự hỏi như vậy. Bởi trong
cuộc tấn công của quân cộng sản hồi
Tết Mậu Thân đầu năm 1968, Huế và
nhất là trong khuôn viên thành nội, nơi có bản doanh
cùng một số đơn vị của Sư Đoàn 1
Bộ Binh đồn trú, đă bị chúng chiếm
giữ trong 3 tuần lễ. Lúc bấy giờ, Chuẩn
Tướng Ngô Quang Trưởng (cấp bậc lúc
ấy) là Tư Lệnh Sư Đoàn này. Cuộc phản
công chiếm lại từng khu vực trong thành nội
Huế rất cam go với tổn thất đáng kể,
Chuẩn Tướng Trưởng đă chứng tỏ
quyết tâm tiêu diệt quân cộng sản hay ít nhất
cũng phải đánh bật chúng ra khỏi Huế trong
thời gian ngắn nhất, khi ông đứng nghiêm
chỉnh ở chân cột cờ với lễ phục và
huy chương biểu tượng cho các chiến công
của ông, Chuẩn Tướng Trưởng đă kêu
gọi quyết tâm của quân sĩ dưới quyền
ông hăy v́ danh dự và trách nhiệm đối với
tổ quốc dân tộc. Qua lời kêu gọi đầy
trách nhiệm cùng với nhiệt tâm của ông, chính là
quyết tâm của vị Tư Lệnh cùng quân sĩ
chiến đấu, đă thúc đẩy cuộc phản
công của Sư Đoàn đến chiến thắng
vẻ vang. Đành rằng trong cuộc hành quân phản
công này, có sự chiến đấu yểm trợ
của quân lực Hoa Kỳ, nhưng Sư Đoàn 1 Bộ Binh Việt Nam vẫn là
lực lượng chính. ‘Mùa Hè Đỏ Lửa’
năm 1972, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (đă
thăng cấp) đang là Tư Lệnh Quân Đoàn IV/Quân
khu IV vùng đồng bằng Cửu Long, được
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cử giữ
chức Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I và tức
tốc lên phi cơ ra Đà Nẳng nhận chức.
Một vị Tướng như thế, tôi nghĩ, ông
không thể để Đà Nẳng vào tay quân cộng sản gần như êm
thắm như vậy! Xin nhớ, Trung Tướng Ngô
Quang Trưởng gốc là binh chủng Nhẩy Dù, và binh
chủng này là một trong những binh chủng rất ĺ
với chiến trận. Nhưng sự thể đă
diễn ra như vậy, ắt phải có điều ǵ
đằng sau quyết định rút bỏ thành phố
cảng quan trọng của miền Trung. Và chỉ có Trung
Tướng Ngô Quang Trưởng mới có thể
hiểu đến tận cùng
điều ấy mà thôi. Ngày 14/1/1995, tôi gặp anh
Nguyễn Thành Trí trong chợ Hong Kong ở Houston, bạn
tôi. Anh là cựu Đại Tá, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn
Thủy Quân Lục Chiến, và Sư Đoàn này
đặt dưới quyền sử dụng dài hạn
của Quân Đoàn I từ sau trận chiến Mùa Hè
Đỏ Lửa năm 1972. Dưới đây là lời
thuật của cựu Đại Tá Trí về những
ngày cuối tháng 3/1975, trong lúc anh và bộ chỉ huy hành
quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ở khu
vực Non Nước, Đà Nẳng: ‘’Khoảng 5 giờ chiều
ngày 28 tháng 3 năm 1975, quân cộng sản tấn công vào
Sư Đoàn 3 Bộ Binh ở sườn Tây Đà
Nẳng, và chỉ vài giờ chống trả là Sư
Đoàn rút lui, tạo khoảng trống bên sườn
của Thủy Quân Lục Chiến, và các đơn
vị co về bản doanh Sư Đoàn (Thủy Quân
Lục Chiến). Thiêu Tướng Bùi Thế Lân, Tư
Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, đă rời khỏi Sư
Đoàn và lên chiến hạm của Hải Quân (Việt
Nam) từ lúc chiều. Nhưng trước khi đi ông có
đến gặp Trung Tuóng Ngô Quang Trưởng xin
quyết định v́ t́nh h́nh rất nghiêm trọng,
nhưng Trung Tướng Trưởng không nói ǵ cả.
Lúc này bên cạnh Thiếu Tướng Bùi Thế Lân có ông
Tổng Lănh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng, ông ta có
mang theo máy vô tuyến cầm tay loại nhỏ và chốc
chốc ông ta nói vị trí của ông với ai ở
đâu đó tôi (tức cựu Đại Tá Trí) không rơ.
Thiếu Tướng Bùi Thế Lân nói với tôi rằng:
Ông Tổng Lănh Sự khuyên ổng
(tức Thiếu Tướng Lân) nên bảo toàn lực
lượng, nhưng Thiếu Tướng Lân không nói
điều này với Trung Tướng Trưởng. ‘’Khoảng nửa đêm 28
rạng 29/3/1975, có tiếng động cơ trực
thăng xuống băi đáp bên cạnh, sĩ quan trực
chạy ra đón và hướng dẫn phái đoàn vào
bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn Thủy Quân Lục
Chiến, gồm các vị: Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng, Chuẩn Tướng Khánh (tôi không biết
họ) Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân (đồn
trú tại Đà Nẳng), Đại Tá Phước
(cũng không biết họ) Không Đoàn Trưởng Không
Đoàn 51/Sư Đoàn 1 Không Quân, Đại Tá Nguyễn
Hữu Duệ, Tỉnh/Thị Trưởng Thừa
Thiên/Huế, và Đại Úy sĩ quan tùy viên của Trung
Tướng Trưởng. Vào bộ chỉ huy, sau khi Trung
Tướng Trưởng liên lạc với các đơn
vị và được biết đă rút lui an toàn
(tức bỏ Đà Nẳng), Trung Tướng Trưởng
nói với các sĩ quan cùng đi theo ông: - Bây giờ th́ các anh hăy tự
thoát, c̣n tôi, tôi đi theo Thủy Quân Lục Chiến- ‘’Trung Tướng
Trưởng vừa nói xong th́ gần như cùng một
lúc, Chuẩn Tướng Khánh, Đại Tá Phước,
Đại Tá Duệ, cùng chào Trung Tướng
Trưởng và lên trực thăng cất cánh ngay.
Khoảng 6 giờ sáng ngày 29/3/1975, sĩ quan vào tŕnh tôi là
chiến hạm đang tiến vào để đón các
đơn vị Thủy Quân Lục Chiến. Tôi
đến tŕnh Trung Tướng Trưởng: - Thưa Trung Tướng, tôi
không biết do lệnh từ đâu mà chiến hạm
đang chờ đón tôi và các đơn vị Thủy
Quân Lục Chiến. Vậy Trung Tướng nên đi
với chúng tôi ngay bây giờ, thưa Trung Tướng- ‘’Sau một lúc chần chừ
như có ư không muốn rời Đà Nẳng, ông
đứng dậy cùng đi với tôi. Nhưng v́
chiến hạm không vào sát bờ được, cũng
không có tàu nhỏ để từ bờ ra chiến
hạm, nên tất cả đều lội nước,
và khi mực nước lên đến ngực cũng là
lúc trèo lên tàu. Sau khi mọi người lên chiến
hạm, lúc ấy tôi trông thấy Đại Tá
Hường (Nguyễn Xuân Hường), Tư Lệnh
Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh đă có mặt trên tàu. Chiến
hạm lui ra khơi nhưng chưa chạy, có vẻ
như chờ lệnh hay chờ ai đó. ‘’Vài tiếng đồng
hồ sau, chiếc trực thăng chở các sĩ quan
rời khỏi bộ chỉ huy hành quân Sư Đoàn
Thủy Quân Lục Chiến lúc nửa đêm qua, đă
quay trở lại, không rơ là do thời tiết xấu hay
v́ lư do ǵ đó, và cả ba vị là Chuẩn Tướng
Khánh, Đại Tá Phước, với Đại Tá
Duệ, cùng lội nước ra chiến hạm. Vẫn
là chiến hạm đang có Trung Tướng
Trưởng trên đó. Tôi thấy sự chia tay đêm qua
sao mà thản nhiên quá, thản nhiên đến mức không
có vẻ ǵ có chút t́nh cảm đọng lại trong giây
phút chia tay đó làm tôi cảm thấy khó chịu. (lời
của Phạm Bá Hoa: thuật chuyện đến đây
đôi mắt anh Trí đỏ hoe, chực phát khóc! Rơ ràng
là anh đang xúc động!) Sau phút im lặng v́ xúc
động, cựu Đại Tá Nguyễn Thành Trí
thuật tiếp: ‘’Tôi nhờ ông Hạm
Trưởng để 3 sĩ quan này ở phía
trước hầu tránh cho Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng trông thấy e không đẹp ḷng nhau. Măi
đến quá trưa, chiến hạm mới rời vùng
biển Đà Nẳng và trực chỉ Cam Ranh. Giữa
chiến hạm với Bộ Tư Lệnh Hải Quân
giữ liên lạc vô tuyến chặt chẻ, nên khi
chiến hạm vừa đến vịnh Cam Ranh th́
nhận được công điện của Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu. Theo đó th́ Tổng
Thống ra lệnh cho tất cả lên bờ, chỉ
riêng Trung Tướng Trưởng vẫn ở trên
chiến hạm và về Sài G̣n ngay. Tôi thắc mắc
nếu muốn Trung Tướng Trưởng về Sài
G̣n ngay th́ tại sao Tổng Thống hay Bộ Tổng
Tham Mưu không cho phi cơ ra Cam Ranh đón mà lại
bảo đi bằng tàu? Lúc đó Trung Tướng
Trưởng nói là ông đi theo Thủy Quân Lục
Chiến chớ không về Sài G̣n. Đến khi Thiếu
Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn
II một đại đơn vị hầu như đă
tan ră sau cuộc hành quân lui binh thảm bại, ông từ
Nha Trang vào Cam Ranh khuyên Trung Tướng Trưởng nên
về Sài G̣n theo lệnh Tổng Thống. Và Trung
Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân
Đoàn I đă theo chiến hạm về Sài G̣n’’. Đến đây là hết
lời thuật của cựu Đại Tá Nguyễn
Thành Trí, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục
Chiến. Với lời thuật trên
đây của cựu Đại Tá Trí, tôi nghĩ rằng:
rất có thể là các vị Tư Lệnh tại Quân
Đoàn I từ binh chủng Bộ Binh, Nhẩy Dù,
Thủy Quân Lục Chiến, đến quân chủng
Hải Quân, Không Quân, và cũng có thể ngay cả Trung
Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân
Đoàn I, đă nhận được lời khuyên
‘bảo toàn lực lượng’ như Thiếu
Tướng Bùi Thế Lân đă nhận của ông
Tổng Lănh Sự Hoa Kỳ tại Đà Nẳng cũng
nên? Không chừng chiến hạm vào gần bờ
để đón Thủy Quân Lục Chiến cũng
từ ‘lời khuyên’ của ông Tổng Lănh Sự nữa
chăng! V́ rơ ràng là cựu Đại Tá Trí không hề
biết lệnh xuất phát từ đâu mà. Và phải
chăng với ‘lời khuyên’ đó đă dẫn
đến các vị có quân có quyền trong tay lần
lượt rời khỏi đơn vị hoặc
chỉ huy đơn vị triệt thoái? Điều này
tôi không rơ, nhưng có điều quí vị đều rơ là
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I và Đà Nẳng vào tay
quân cộng sản quá dễ như khi vào Bộ Tư
Lệnh Quân Đoàn II ở Plei Ku vậy! Tối
ngày 6/9/2003, khi vợ chồng tôi dự tiệc
cưới tại Washington DC, chúng tôi ngồi chung bàn
với cựu Trung Tướng Ngô Quan Trưởng, và
cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ
Thoại, tôi có ư định hỏi Trung Tướng
Trưởng về điều thắc mắc của
tôi, nhưng v́ cựu Phó Đề Đốc Thoại
lại đưa vấn đề cuộc đảo
chánh ngày 1/11/1963 hỏi tôi nên tôi măi nóí chuyện với
ông, để rồi cuối cùng không c̣n th́ giờ xin
lời tâm sự từ cựu Trung Tướng Ngô Quang
Trưởng. Bây
giờ xin mời quí vị quay nh́n vào số lượng
đồng bào chạy loạn được các loại
tàu chở từ Huế và Đà Nẳng xuôi Nam và
đưa ra đảo Phú Quốc tạm trú. Phú Quốc
thuộc tỉnh Kiên Giang mà tỉnh lỵ là Rạch Giá,
nằm ngay cửa ngỏ vào vịnh Thái Lan. Số
đồng bào chạy loạn này do Bộ Xă Hội
phụ trách nuôi ăn trong khi chờ biện pháp giải
quyết chung. Bộ Xă Hội yêu cầu Tổng Cục
Tiếp Vận giúp họ tiếp tế mỗi ngày 20.000
phần cơm và phi cơ đưa ra Phú Quốc cung
cấp cho đồng bào. Trung Tướng Đồng
Văn Khuyên bảo tôi lo giúp Bộ Xă Hội. Tôi
điện thoại lên Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung,
xin tiếp chuyện với Thiếu Tướng Trần
Bá Di, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm này: - Hoa đây Anh. Có việc này
xin nhờ Anh và hi vọng Anh tiếp tay được-
Xin lỗi quí vị, tôi xưng hô như vậy với
Thiếu Tướng Trần Bá Di, v́ chúng tôi thân nhau
từ lâu. - Việc ǵ mà coi bộ quan
trọng vậy anh? - Tại Phú Quốc hiện có
khoảng 20.000 đồng bào của các tỉnh miền
Trung chạy vào tạm trú, bên Bộ Xă Hội nhờ quân
đội nấu cơm , vắt lại từng vắt,
và dùng phi cơ quân sự đưa ra Phú Quốc cho đồng bào. Chuyện này
là chuyện hằng ngày nghe Anh. Gạo th́ Bộ Xă Hội
cung cấp. Anh liệu Trung Tâm có thể giúp
được không? - Được chớ.
Chuyện chung mà. Nhưng chừng nào th́ tụi tôi
nấu? - Ngay hôm nay. để mai là
chuyến tiếp tế đầu tiên do quân đội
nhận giúp. Vậy Anh cho mượn gạo hôm nay nghe, và
mai chúng tôi chở gạo đến Anh đủ một
tuần, sau đó tính tiếp.
- Được. Tôi cho
nấu ngay. Khi xong, tôi cho anh hay. - Xin cám ơn Anh - - Cái ǵ mà anh cám ơn. Mỗi
người mỗi đơn vị phải góp phần
trách nhiệm của ḿnh chớ anh - Thế là từ hôm ấy,
cơm vắt được đưa ra Phú Quốc
bằng phi cơ phi cơ tiếp tế cho đồng
bào tạm trú tại đó. Nhưng rồi t́nh h́nh ngày càng
xấu thêm ./. * * * * * Houston,
cuối Đông 2003-2004 Bài viết này trích từ quyển
Đôi Ḍng Ghi Nhớ ấn hành năm 1994, 1995, 1998, và tôi
đang chuẩn bị để nhà xuất bản
ấn hành lần 4 vào mùa hè 2004 này, sau khi bổ túc do
những điều mà cựu Đại Tướng
Trần Thiện Khiêm và cựu Đại Tướng Cao
Văn Viên cho biết thêm |