(Tác giả giữ bản quyền. Muốn trích đăng, vui lòng liên lạc Email: doanket@yahoo.com. Cám ơn)
(Phần 5 - Hết)
Bình phẩm một biến cố đã xảy ra là điều tương đối dễ dàng vì chúng ta biết rõ ưu khuyết điểm nên có thể đưa ra nhiều giả thuyết hoặc “nghi vấn” bắt đầu bằng chữ “nếu …”. Nhưng đặt mình vào cương vị của người có trách nhiệm với những quyết định sinh tử đúng lúc và đúng mức trước và trong lúc xảy ra trận đánh mới là điều đáng nói và đó cũng là sự khác biệt về khả năng của mỗi cấp chỉ huy. Tuy nhiên, “ôn cố tri tân”, rút ưu khuyết điểm và nhất là luận đúng công trạng, “trả lại cho Ceasar những gì của Ceasar” là điều nên làm. Chúng tôi không hề hàm ý mù quáng khen chê, chỉ trích hoặc chê bai thẩm quyền đã đưa ra quyết định này, lệnh lạc nọ, chỉ hy vọng đưa ra những nhận xét khách quan căn cứ vào những thực tế đã xảy ra.
Phân tích về trận đánh tại Trại Làng Vei, chúng ta có thể rút tỉa được nhiều kinh nghiệm về chiến thuật, chiến lược cũng như về hệ thống chỉ huy. Ngoài ra, tinh thần chiến đấu anh dũng của quân trú phòng khi phải đối diện với chiến xa địch cũng được mô tả khá rõ ràng trong các phúc trình hậu hành quân. Trong tổng số 24 quân nhân HK tham chiến tại trại được ân thưởng 24 huy chương gồm 1 Medal of Honor, 1 Distinguished Service Cross, 19 Silver Star và 3 Bronze Star, chưa kể phần lớn những quân nhân HK khác thuộc lực lượng tiếp cứu cũng được ân thưởng huy chương, đó là chưa kể những huy chương VN được tưởng thưởng thêm cho những quân nhân HK này. Số huy chương Silver Star được ân thưởng nhiều đến nỗi sau này, trận đánh tại Trại Làng Vei được mệnh danh là "Night of the Silver Stars". Như thường lệ, các tài liệu Hoa Kỳ đều coi trận đánh như “tài sản” riêng, chỉ có quân nhân Hoa Kỳ chiến đấu và có công, mặc dầu Làng Vei là một trại LLĐB của Việt Nam, có Trại Trưởng người Việt và quân số trong trại gồm khoảng 500 người, chỉ có 24 “cố vấn” Mỹ. Sự đóng góp của quân nhân VN được nói tới rất ít, hầu như không đáng kể. Chúng tôi cũng không rõ những quân nhân Việt Nam này đã được ân thưởng những gì, nhưng có điều chắc chắn căn cứ vào lời thuật lại của các bạn đồng trại HK, họ đã chiến đấu anh dũng nếu không hơn thì cũng chẳng kém những "cố vấn" đồng minh.
Trận Làng Vei được bàn cãi nhiều vì những đặc điểm về chiến lược, chiến thuật cũng như hệ thống chỉ huy. Sau đây là một số nhận xét riêng của người viết về một số điểm chính.
Đây là lần đầu tiên địch xử dụng thiết giáp trên chiến trường VN. Tuy chỉ là chiến xa lội nước loại PT-76 được bọc thép tương đối mỏng, nhưng hỏa lực của đại bác 76 ly trực xạ và nhất là yếu tố tâm lý đã khiến quân trú phòng như tê liệt khi bất ngờ chạm trán với hàng chục tấn thép hầu như không phá hủy nổi. Chính những chiến xa này đã xâm nhập, phá hủy các công sự và gây rối loạn cho hệ thống phòng thủ khá vững chắc. Có thể nói, nếu thiếu chiến xa, lực lượng bộ binh địch khoảng 3 Tiểu Đoàn khó có thể tràn ngập trại.
Điều đáng ngạc nhiên, mặc dù đã được TĐ 33 BV Lào báo trước có chiến xa địch xuất hiện, và không thám cũng cung cấp những bằng chứng rõ ràng, nhưng cấp chỉ huy HK vẫn cho rằng quân Bắc Việt không có thiết giáp trong vùng. Ngay cả khi các toán thám sát MACV/SOG báo cáo phát hiện dấu xích chiến xa cạnh bờ sông Sepone bên Lào, giới chức thẩm quyền vẫn cho rằng họ chỉ thổi phồng để "lấy điểm". Đến lúc chiến xa địch đã thực sự phá hàng rào phòng thủ xâm nhập trại, TQLC tại căn cứ Khe Sanh có nhiệm vụ yểm trợ trại Làng Vei khi nghe báo cáo vẫn không tin, yêu cầu xác nhận nhiều lần. Chúng ta có thể kết luận: chính sự đánh giá sai lầm khả năng xử dụng thiết giáp của địch đã đưa đến việc trại bị tràn ngập.
Tuy Đại Úy Willoughby có đôi chút cảnh giác, yêu cầu cung cấp khoảng 100 hỏa tiễn chống chiến xa LAW, nhưng ông cho rằng chiến xa của địch quân nếu có cũng chỉ được dùng để yểm trợ như súng cối pháo kích từ ngoài hàng rào, thay vì trực tiếp tấn công như đã xảy ra. Sự lượng giá sai lầm này không đáng ngạc nhiên vì địa thế vùng Khe Sanh hiểm trở với nhiều đồi núi khe suối, không thuận tiện cho chiến xa di chuyển. Về vũ khí chống chiến xa, các quân nhân HK đã tự tay bắn thử một số hỏa tiễn LAW, quân nhân VN được thực tập hầu như không có; số hỏa tiễn còn lại không được phân phối cho các tổ chiến đấu nơi hàng rào phòng thủ mà tập trung trong hầm chỉ huy. Vì vậy, khi chiến xa địch phá hàng rào xâm nhập mặt Nam, ĐĐ DSCĐ 104 không có vũ khí để chống lại. Ngoài ra, cho dù chiến xa địch có bất ngờ lọt được vào trại, nhưng với chừng 75 trái LAW còn lại, nếu hoạt động bình thường có hiệu quả, cũng dư sức bắn hạ 11 chiếc PT-76, nhất là trong tầm không xa. Rất tiếc, tuy toán diệt chiến xa do Trung Tá Schungel đích thân thành lập đã xử dụng nhiều LAW, nhưng một tỷ số rất caođến 90% đã không nổ, số còn lại tuy khai hỏa trúng chiến xa nhưng không gây thiệt hại. Đây là điều rất đáng ngạc nhiên vì LAW được chế tạo để bắn hạ chiến xa hạng trung như T-54 có vỏ thép dầy hơn PT-76 nhiều. Sau này, có dư luận cho rằng vì LAW được thả bằng đường hàng không nên không hữu hiệu.
Trong trận đánh, vũ khí chống chiến xa hữu hiệu nhất là khẩu đại bác 106 ly không giật đặt tại mặt Nam hướng về phía Làng Troài. Chỉ riêng khẩu súng này do Trung Sĩ Tiros điếu khiển đã bắn hạ được 3 chiến xa ngay phút đầu tiên. Người ta tự hỏi nếu khẩu đại bác 106 ly thứ hai đặt tại mặt Bắc có người thay thế xạ thủ chính đi phép, rất có thể thêm nhiều chiến xa địch đã bị hạ. Trong tổng số 11 chiến xa địch, có cả thảy 7 chiếc bị bắn cháy tại chỗ, chỉ còn 4 chiếc còn lại làm mưa làm gió, nếu khẩu 106 thứ nhì hoạt động hoặc LAW bắn hiệu quả hơn chắc chiến xa địch bị diệt hết.
Một loại vũ khí chống chiến xa rất hữu hiệu nữa là mìn đặt tại những nơi dự trù chiến xa hoạt động. Quanh trại Làng Vei chỉ có 3 ngả chiến xa có thể dùng để xâm nhập: đó là đường số 9 tương đối lớn từ hướng Tây và hướng Đông và đường từ hướng Làng Troài về phía Nam. Nếu đặt mìn chống chiến xa tại 3 ngả đường quan trọng này, chắc chắn nhiều xe thiết giáp vỏ mỏng PT-76 của địch sẽ bị tiêu diệt hay ít nhất cũng bị phát hiện sớm. Có lẽ cấp chỉ huy LLĐB cho rằng địch không có thiết giáp nên không nghĩ tới xử dụng mìn trong hệ thống phòng thủ.
Một phương tiện khác để phát hiện và có thể tiêu diệt chiến xa địch trước khi chúng xâm nhập hàng rào phòng thủ là toán tiền đồn. Theo quan niệm phòng thủ, toán tiền đồn có nhiệm vụ phát hiện địch quân càng sớm càng tốt trước khi chúng vào được căn cứ chính. Chiến xa nặng nề, cần phải có đường di chuyển và nhất là phát ra tiếng máy và tiếng xích sắt lớn nên tương đối dễ phát hiện hơn quân bộ chiến ngụy trang lợi dụng bóng tối len lỏi trong rừng núi. Như trên đã nói, chiến xa địch có thể tiến tới Làng Vei bằng 3 ngả: hướng Tây từ biên giới Lào - Việt, hướng Đông từ Khe Sanh và hướng Nam từ Làng Troài. Để phát hiện địch, chỉ có một Trung Đội Mike Force của Trung Úy Longgrear nằm tiền đồn tại mặt Tây, cách hàng rào phòng thủ trại chừng 500 thước, còn các Trung Đội Mike Force khác được kéo về phòng thủ trại. Nếu có thêm các toán tiền đồn được đặt tại mặt Nam và mặt Đông, chắc chắn chiến xa địch đã bị phát hiện sớm hơn, không cần phải chờ tới lúc chúng đã tiến sát hàng rào phòng thủ. Đứng về phương diện chiến thuật, việc đặt toán tiền đồn tại mặt Tây rất hợp lý vì lực lượng địch được tập trung đông đảo tại vùng biên giới Lào- Việt, do đó, đây là mặt bị đe dọa nhiều nhất và địch có nhiều triển vọng sẽ tấn công từ mặt này. Mặt Đông có căn cứ Khe Sanh của TQLC che chở nên khá an toàn. Riêng mặt Nam tương đối ít bị đe dọa, ít nhất về phương diện chiến xa vì không có đường lớn dẫn thẳng qua Lào. Có lẽ vì lý luận như trên nên cấp chỉ huy tại Trại Làng Vei không đặt các toán tiền đồn tại mặt Nam và mặt Đông. Tuy nhiên địch quân có lẽ đã theo dõi và quan sát, thấy toán Mike Force đêm nào cũng nằm tiền đồn một chỗ tại mặt Tây, không có tại mặ Nam và Đông nên nỗ lực chúng đã đi vòng, đánh từ mặt Nam.
Nói tóm lại, nếu các toán tiền đồn được đặt đúng chỗ, tất cả 11 chiến xa địch đã bị phát hiện sớm khi còn bên ngoài trại. Lúc đó quân phòng thủ có thể phản ứng và phi pháo can thiệp kịp thời. Nếu có thêm mìn chống chiến xa, thiết giáp địch khó lòng tiến sát hàng rào phòng thủ. Dù một số có thể lọt được vào trại, nếu các hỏa tiễn LAW khai hỏa hữu hiệu và cả hai khẩu đại bác 106 ly không giật hoạt động đều hòa, có lẽ chẳng một chiến xa địch nào chạy thoát. Trên thực tế, tuy bị tiêu diệt 7 nhưng 4 chiến xa còn lại của địch đã phá vỡ hệ thống phòng thủ và gây rối loạn trong trại Lang Vei.
Như vậy, sở dĩ chiến xa địch đạt được thành quả vì cấp chỉ huy LLĐB đã ước đoán sai lầm khả năng xử dụng chiến xa của địch. Đa số không tin rằng địch có chiến xa nên nhiều biện pháp phòng ngừa hữu hiệu không được thi hành, hoặc nếu có cũng không đúng mức
Tưởng cũng nên nói thêm, các tài liệu của địch sau này cho biết thay vì tấn công thẳng từ mặt Tây trên đường số 9, họ đã tận dụng khả năng lội nước của chiến xa PT-76 để tạo yếu tố bất ngờ. Một Tiểu Đoàn PT-76 (-) đã cho xe lội 4 cây số trên sông Sepone về hướng Nam sát biên giới Lào Việt để ém quân tại vùng Làng Troài sâu hơn về phía Nam. Tài liệu địch cũng cho biết nếu chiến xa thành công trong trận Làng Vei mà không bị thiệt hại nặng, họ sẽ dùng chiến thuật tương tự để thanh toán căn cứ TQLC tại Khe Sanh. Nhưng vì đa số chiến xa bị phá hủy và hư hại nên sau đó chiến xa không còn được xử dụng nữa.
Sự thành công hay thất bại của một trận đánh hầu như hoàn toàn tùy thuộc vào quyết định của các cấp chỉ huy trực tiếp tại chỗ và các “thẩm quyền” liên hệ từ các Bộ Tư Lệnh hoặc Bộ Chỉ Huy theo hệ thống quân giai. Trong trận đánh tại Làng Vei, cấp chỉ huy then chốt tại chỗ về phía Hoa Kỳ gồm Trung Tá Schungel, Chỉ Huy Trưởng BCH/LLĐB/C; Đại Úy Willoughby Trưởng Trại và Trung Úy Longgrear Chỉ Huy Trưởng Toán Mike Force. Về phía Việt Nam có Trung Úy Phạm Duy Quân Trưởng Trại và Trung Úy Lương Văn Qúy Sĩ Quan Hành Quân. Các cấp chỉ huy “gián tiếp” gồm Đại Tá TQLC Lownds tại Khe Sanh, Thiếu Tướng TQLC Tompkins tại Đà Nẵng và Đại Tướng Wesmoreland Tư Lệnh MACV tại Sài Gòn. Chúng ta thử tìm hiểu những cấp chỉ huy này đã hành xử ra sao trong lúc trại Lang Vei bị tấn công?
Vị sĩ quan có cấp bậc cao nhất tại trại Lang Vei là Trung Tá Schungel, cũng là cấp chỉ huy trực tiếp của Trại Trưởng Willoughby. Khi chiến xa đầu tiên của địch bị phát hiện trong lúc đang phá hàng rào phòng thủ, Trung Tá Schungel lập tức tổ chức một toán diệt chiến xa bằng hỏa tiễn cầm tay LAW gồm một số sĩ quan Mỹ Việt. Phải công nhận suốt đêm, trong lúc trận đánh tiếp diễn ác liệt, Trung Tá Schungel và toán diệt chiến xa này đã chiến đấu rất dũng cảm, nhiều lần chạy bộ đuổi theo hoặc cận chiến với chiến xa địch, có lúc họ còn liệng lựu đạn dưới xích chiến xa để hy vọng chận đứng được chúng. Nhưng đáng tiếc, đa số hỏa tiễn LAW bị “thối” không khai hỏa, bắn trật hoặc trúng chiến xa nhưng không gây thiệt hại. Tổng kết, với gần 100 hỏa tiễn LAW cũng chỉ diệt được một vài chiến xa. Khi không còn LAW, toán diệt chiến xa tính rút vào hầm chỉ huy nhưng Trung Tá Schungel cho rằng ở bên ngoài có nhiều hy vọng “sống sót” hơn. Từ đó cho đến khi được cứu thoát vào sáng sớm, Trung Tá Schungel kể như chỉ có thể tự vệ, lo cho sự an toàn của bản thân, không còn đóng góp nào đáng kể trong việc phòng thủ trại.
Nhìn chung, vị sĩ quan cao cấp nhất trong trại đã chiến đấu rất anh dũng, nhưng dưới vai trò của một khinh binh chống chiến xa, không phải với cương vị của một cấp chỉ huy thâm niên hiện diện thi thố sở trường lãnh đạo chỉ huy của mình. Ngay trong lúc nguy kịch nhất, khi các vũ khí chống chiến xa không còn nữa, Trung Tá Schungel đã từ chối không vào hầm chỉ huy để tiếp tay với Bộ Chỉ Huy trại, điều này cho thấy ông không muốn nhận lãnh vai trò chỉ huy rất cần thiết trong lúc dầu sôi lửa bỏng. Chúng ta có thể nghĩ rằng Trung Tá Schungel, mặc dù là cấp chỉ huy trực tiếp của Đại Úy Trại Trưởng Willoughby, nhưng vẫn tôn trọng nguyên tắc phân quyền để BCH trại tự do điều động. Nhưng nếu Trung Tá Schungel có mặt tại hầm chỉ huy, về mặt tâm lý, chắc Đại Úy Willoughby sẽ yên tâm hơn trong việc điều động lực lượng cơ hữu. Ngoài ra, với cấp bậc cao có uy tín hơn, Trung Tá Schungel có thể tiếp tay đảm trách việc liên lạc với các đơn vị yểm trợ bên ngoài. Rất có thể nếu đích thân Trung Tá Schungel vào máy yêu cầu pháo binh TQLC tại Khe Sanh bắn yểm trợ để chận chiến xa địch đã xâm nhập hàng rào phòng thủ, trại đã được thỏa mãn ngay, không phải hỏi đi hỏi lại xác nhận có chiến xa khiến việc bắn yểm trợ đã chậm trễ đến gần 30 phút. Ngoài ra, để một mình Đại Úy Trưởng Trại Willoughby vừa điều động việc phòng thủ, vừa liên lạc TQLC, BTL/LLĐB tại Nha Trang, phi cơ không yểm v.v… chắc không thể nào hữu hiệu bằng khi có cấp chỉ huy tiếp tay.
Việc Trung Tá Schungel đảm nhận vai trò chỉ huy đúng theo hệ thống quân giai của mình chưa chắc đã thay đổi được cục diện của trận đánh, nhưng ít ra cũng tránh được phần nào rối loạn trong hệ thống chỉ huy và việc yểm trợ chắc sẽ hiệu quả hơn. Rất tiếc điều này đã không xảy ra nên sự đóng góp của “khinh binh” Schungel tuy đáng kể, nhưng trong lúc dầu sôi lửa bỏng, chắc hẳn trại Lang Vei cần tài lãnh đạo chỉ huy của một Trung Tá hơn khả năng đuổi theo chiến xa của một khinh binh.
Vị sĩ quan Hoa Kỳ thứ nhì đóng vai trò quan trọng trong trận Lang Vei là Đại Úy Willoughby. Người trại trưởng nhiều khả năng này cũng đích thân coi sóc việc xây dựng trại ngay từ khi được dời tới địa điểm mới, do đó rất quen thuộc với với hệ thống phòng thủ cũng như địa hình, địa vật chung quanh. Vì vị trí chiến lược tối quan trọng nằm án ngữ ngay yết hầu đường xâm nhập của địch từ Lào vào sườn Tây của Việt Nam qua đường số 9 nên Đại Úy Willoughby dự tính thế nào địch quân cũng phải nhổ cái gai này. Do đó, trại được tổ chức với quan niệm “đơn độc chiến đấu, hỗ tương phòng thủ” bằng cách chia thành 4 khu với công sự và hàng rào phòng thủ như những tiền đồn biệt lập để có thể tiếp tục chiến đấu dù các khu khác bị tràn ngập, trong lúc có thể liên hoàn yểm trợ lẫn nhau khi cần. Ngoài ra, các công sự chiến đấu cũng được xây cất kiên cố, điển hình hầm chỉ huy được xây ngầm dưới đất bằng xi măng cốt sắt. Theo dự trù, trại có thể giữ vững dù bị địch tấn công cấp Trung Đoàn.
Tất cả những dự tính của Trại Trưởng Willoughby đều trở thành sự thật và ông có biện pháp đề phòng thỏa đáng trước kế hoạch tấn công của địch, ngoại trừ yếu tố thiết giáp. Tuy có xin tăng cường một số vũ khí chống chiến xa như hai khẩu đại bác không giật 106 ly để phòng thủ mặt Bắc hướng về đường số 9 và mặt Nam hướng về đường Làng Troài cùng 100 hỏa tiễn chống chiến xa cầm tay LAW, nhưng ông vẫn không hoàn toàn tin rằng địch có thể xử dụng thiết giáp làm mũi dùi xung kích dẫn đầu bộ binh. Theo ước tính của ông, nhiều lắm địch chỉ có thể dùng đại pháo trên chiến xa để bắn yểm trợ từ bên ngoài trại, do đó mìn chống chiến xa không được xử dụng và hỏa tiễn LAW cũng không được thực tập thỏa đáng. Ông cũng không cho nằm tiền đồn tại mặt Nam vì nghĩ rằng địch không tấn công từ hướng này.
Ngay khi khởi đầu trận đánh, Đại Úy Willoughby đã có mặt trong hầm chỉ huy, vừa điều động các đơn vị trực thuộc chống trả khá hữu hiệu, vừa yêu cầu pháo binhTQLC tại Khe Sanh yểm trợ theo kế hoạch dự trù. Rất tiếcTQLC không tin có chiến xa địch nên việc yểm trợ chậm trễ gần nửa tiếng đồng hồ và hỏa tiễn LAW không hữu hiệu khiến chiến xa địch lọt được vào trong trại. Vì không còn bị ngăn cản nên chiến xa địch mặc sức làm mưa làm gió, cán sập các các công sự phòng thủ hoặc trực xạ thổi bay các pháo đài. Dù tình hình nguy ngập chỉ còn hầm chỉ huy ngầm dưới đất chưa bị địch chiếm, Đại Úy Willoughby cùng BCH trại vẫn cầm cự tới cùng, trong lúc điều chỉnh phi cơ không yểm. Tới khi cả hai cửa hầm chỉ huy bị bắn sập và chiến xa địch nghiền nát nóc hầm trong lúc địch khoan tường đặt chất nổ và thả lựu đạn vào, Đại Úy Willoughby vẫn không đầu hàng. Sau cùng, khi trời rạng sáng, với không yểm và quân tăng viện từ bên ngoài hoạt động khá hữu hiệu, Đại Úy Willoughby cùng BCH chạy được ra ngoài và được Trung Úy Lương Văn Qúy lái xe cứu thoát đưa về Trại Làng Vei cũ.
Có thể nói Đại Úy Trại Trưởng Willoughby đã làm tròn nhiệm vụ của cấp chỉ huy, điều động binh sĩ thuộc quyền chiến đấu anh dũng dù bị chiến xa địch khống chế. Chỉ tiếc rằng ông và trại Làng Vei đã phải chiến đấu đơn độc, không được sự trợ giúp hữu hiệu của các cấp chỉ huy cũng như các đơn vị bạn bên ngoài.
Vị sĩ quan HK thứ ba có mặt trong trại có thể trợ giúp đắc lực trong việc phòng thủ là Trung Úy Longgrear chỉ huy toán Mike Force tăng phái gồm chừng 200 người Thượng Hrê. Thoạt đầu, toán Mike Force được dùng để thám sát và làm tiền đồn bên ngoài, sau đó, một số lớn được kéo vào trong trại để tăng cường phòng thủ. Trong lúc xảy ra trận đánh, Trung Úy Longgear nhập vào toán diệt chiến xa do Trung Tá Schungel thành lập. Với 200 tay súng, toán Mike Force là một lực lượng phòng thủ rất đáng kể có thể thay đổi cục diện trận đánh nếu được điều động đúng lúc và đúng mức. Riêng cá nhân Trung Úy Longgrear chiến đấu can dảm dù bị thương nhiều lần. Anh cố thủ trong hầm chỉ huy cho tới trời sáng. Khi chạy thoát thân, anh bị thương què chân lần nữa, tưởng đã nằm chờ chết, nhưng anh thuật lại vì thấy được Chúa Trời nên thêm sức mạnh gượng dậy chạy tiếp, may gặp được Trung Úy Qúy liều chết lái xe đón ngoài trại. Vì trong cơn nguye biến đã “được Đức Chúa Trời” cứu giúp toàn mạng nên sau này khi trở về Hoa Kỳ, anh Longgrear trở thành một Thầy Giảng ngoan đạo.
Sau này, theo sách vở Hoa Kỳ, anh Longgrear thuật lại trường hợp “gặp Đức Chúa Trời” đại khái như sau: “Khi chạy ra khỏi hầm chỉ huy, cả toán bị một tổ đại liên của địch đốn ngã. Longgear vừa chạy, vừa bắn nguyên băng đạn súng M-15 gồm 18 viên vào ổ súng địch, cho đến khi ngã xuống vì cẳng chân đã bị gẫy từ trước không chịu nổi. Anh tưởng đã đến giờ tận số. Đúng vào giây phút thập tử nhất sinh này, quan niệm về cuộc đời của anh đột nhiên thay đổi. Tất cả hình ảnh, âm thanh dường như lắng đọng, kể cả các máy bay trên trời và các tiếng động chung quanh, như định mệnh đang chờ đón. Longgrear nhớ lại mình cầu nguyện “lạy Trời đừng để con chết, con chưa muốn chết”. Đột nhiên, anh tìm thấy một cảm giác rất yên bình không còn sợ chết nữa và thực tế cũng trở lại với tất cả sôi động của chiến trường. Longgrear vùng dậy, dùng súng như cây gậy chống chạy toát theo những người khác.”
Các sĩ quan Hoa Kỳ khác có mặt trong trại gồm Trung Úy Trại Phó Mile R. Willkins và Trung Úy Công Binh Thomas E. Todd cũng không đóng góp nhiều. Trại Phó Wilkins nhập toán diệt chiến xa, bị thương nhưng trốn vào được bệnh xá cùng Trung Tá Schungel, đến sáng được cứu thoát. Còn Trung Úy Todd vô tình có mặt trong trại để sửa chữa các hầm phòng thủ cũng bị chiến xa địch săn đuổi nên phải trốn vào kho y dược cho tới chiều ngày hôm sau mới được cứu thoát.
Riêng anh Trung Sĩ da đen Eugene Ashley Jr., tuy không có mặt lúc xảy ra trận đánh, nhưng đã nhiều lần hướng dẫn đồng đội từ trại Làng Vei cũ trở về trại Làng Vei tiếp cứu bạn đồng đội. Với một lực lượng tương đối yếu, mỗi lần bị đẩy lui, anh lại tái tổ chức và tiếp tục tiếp cứu liên tiếp 4 lần cho đến khi trúng đạn địch tử thương, thật xứng đáng là một anh hùng nhận lãnh Huy Chương Danh Dự.
Về phía Việt Nam, trại Làng Vei có Trung Úy Trưởng Trại Phạm Duy Quân và Trung Úy Lương Văn Qúy là Sĩ Quan Hành Quân. Rất tiếc các tài liệu VNCH không ghi nhận nhiều về Trận Làng Vei, còn hầu hết các tài liệu Hoa Kỳ chỉ nói về những “chiến công” của chính họ. Tuy nhiên, góp nhặt những tài liệu hiếm hoi hiện có và qua những cuộc phỏng vấn với một số quân nhân LLĐB/VNCH, chúng ta có thể biết được ít nhiều về sự đóng góp rất đáng kể của các sĩ quan Việt Nam.
Về Trung Úy Trại Trưởng Phạm Duy Quân, chỉ biết vào chiều ngày 6 tháng 2 ông đã thanh tra hệ thống phòng thủ. Đến đêm, ông có mặt trong hầm chỉ huy cùng người đối nhiệm là Đại Úy Willoughby trong suốt trận đánh. Tài liệu Hoa Kỳ cho biết khi hầm chỉ huy bị bao vây nguy ngập, một số quân nhân Việt Nam leo cầu thang ra ngoài “đầu hàng” địch quân. Cuốn sách “Night Of The Silver Stars” kể lại biến cố này đại ý như sau: ”Vào khoảng 3 giờ sáng, địch quân dùng súng phun lửa và hơi ngạt phóng vào hầm chỉ huy để lùa những người đang cố thủ bên trong ra ngoài nhưng vô hiệu. Tới 3:30 sáng, địch dùng tiếng Việt Nam dọa sẽ dùng chất nổ phá hủy hầm và kêu gọi những người trong hầm đầu hàng. Những quân nhân Việt Nam trong hầm đã cố thủ tới giờ phút này, nhưng giờ đây, họ quyết định đầu hàng.” Tài liệu còn cho biết các quân nhân Việt Nam đầu hàng sau đó bị địch bắn chết tại chỗ, nhưng sau khi trận đánh chấm dứt, không thấy xác quân nhân Việt Nam nào bên ngoài hầm. Chúng tôi rất nghi ngờ phần nói về các quân nhân Việt Nam của tài liệu Hoa Kỳ này. Rất mong các nhân chứng biết về Trận Làng Vei thuộc LLĐB/VNCH sẽ lên tiếng để lịch sử được sáng tỏ.
Rất may phần đóng góp của một sĩ quan Việt Nam trong trận Làng Vei, Trung Úy Lương Văn Qúy, Sĩ Quan hành Quân được ghi lại rõ ràng hơn. Để đề phòng nội tuyến, Trung Úy Qúy và Trung Úy Trại Trưởng Phạm Duy Quân là hai quân nhân Việt Nam duy nhất được quyền ra vào hầm chỉ huy khi trời tối. Chiều ngày 6 tháng 2, sau vụ lộn xộn vì toán Mike Force người Hre của Trung Úy Longgrear từ chối không chịu nằm tiền đồn vì lý do “có nhiều Việt Cộng”, hai Sĩ Quan Việt Nam cùng với Trung Tá Schungel và Đại Úy Willoughby đi kiểm tra hệ thống phòng thủ trại. Theo dư luận Hoa Kỳ, mối liên hệ giữa 2 sĩ quan Trưởng Trại Việt – Mỹ không được tốt đẹp lắm.
Khi chiến xa địch bắt đầu phá hàng rào phòng thủ tại khu đông Nam thuộc khu vực của Đại Đội 104, Trung Úy Qúy nhập vào toán chống chiến xa do Trung Tá Schungel tổ chức. Sau khi hai chiến xa PT-76 bị đại bác 106 bắn hạ ngay tại hàng rào phòng thủ, một chiếc thứ ba tiến được vào trong trại nhưng cũng bị bắn hạ. Ba tên địch từ trong chiến xa ôm súng AK-47 nhẩy vội ra ngoài, nhưng bị Trung Úy Qúy dùng súng cá nhân và lựu đạn hạ ngay tại chỗ. Nhưng toán diệt chiến xa bị một chiến xa còn lại phát hiện bắn trả dữ dội khiến tất cả phải ẩn nấp sau một hàng thùng phuy chứa đầy đá ngay bên ngoài cửa vào hầm chỉ huy. Một phát đại bác trên chiến xa bắn từ tầm gần khoảng 20 thước phát hủy hàng thùng phuy khiến Trung Úy Longgrear vừa rời toán vào hầm chỉ huy để kiếm thêm LAW thấy toán diệt tăng bị trúng đạn đại bác trực xạ, báo cáo với Trại Trưởng Willoughby rằng Trung Tá Schungel đã bị tử thương. Nhưng thật sự, Trung Tá Schungel chỉ bị thương ở đùi, Trung Úy Trại Phó Miles R. Wilkins bị những thùng phuy đè bất tỉnh, Trung Sĩ McMurray bị nát tay và gần như bị mù vì đạn đại bác nổ quá gần. Bộ binh tùng thiết địch ào tới để thanh toán may nhờ Trung Úy Qúy không hề hấn gì đã bình tĩnh dùng súng cá nhất bắn hết băng đạn này đến băng đạn khác chận đứng được địch quân cứu được cả toán. Sau này, chính Trung Tá Schungel cho biết nếu không nhờ Trung Úy Qúy can đảm và bình tĩnh bắn chận, chắc chắn cả toán đã không toàn mạng. Tuy thoát chết nhưng vẫn bị chiến xa và bộ binh địch săn đuổi, cả toán bàn tính tìm được thoát thân, nhiều người đề nghị vào hầm chỉ huy nhưng Trung Tá Schungel cho rằng ở bên ngoài có nhiềy hy vọng sống sót hơn. Cuối cùng đề nghị củaTrung Úy Qúy lui về ẩn nấp tại một rặng cây gần đó được mọi người đồng ý. Trung Úy Qúy đi trước mở đường, ba quân nhân Hoa Kỳ bị thương theo sau, nhưng không may một chiến xa địch đột ngột xuất hiện nên cả toán bị thất lạc mỗi người một ngả. Trung Tá Schungel và Trung Úy Wilkins dìu nhau trốn vào khu cư xá và bệnh xá
Khi trời sáng, Trung Úy Qúy thoát được ra ngoài, trở lại trại Lang Vei cũ nơi tương đối an toàn. Dù sau nhiều lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, ông vẫn không chịu ở lại chỗ xa lửa đạn. Trung Úy Qúy tìm được một chiếc xe Jeep, một mình vượt qua vùng địch chiếm, lái trở lại Trại Làng Vei nhiều lần cứu được tổng cộng 7 quân nhân Hoa Kỳ còn sống sót. Chính Trung Úy Longgrear đã phát biểu về hành động của Trung Úy Qúy đại ý như sau: “Trung Úy Qúy, một sĩ quan Việt Nam, lái xe jeep xông tới … đây là hành động can đảm tôi chưa từng thấy trong chiến trận. Trung Úy Quý đã rời bỏ nơi an toàn tại Trại Làng Vei cũ, lái xe vượt qua các ổ phục kích, mạo hiểm tới cứu chúng tôi. Ngồi trên xe, tôi thấy rõ địch quân đang ẩn núp trong bụi rậm bên đường. Không hiểu thiên thần hộ mạng đã làm chúng quáng mắt hay chúng tuân hành kỷ luật cao đến nỗi chỉ chờ bắn TQLC xuất phát từ Khe Sanh … Tôi không rõ. Nhưng rõ ràng chúng tôi thấy địch phục kích và chúng chỉ nhìn xe chúng tôi phóng qua”. Thật không còn lời tuyên dương nào xứng đáng và chính xác hơn cảm nghĩ của Trung Úy Longgrear đối với hành động quả cảm của Trung Úy Qúy.
"Hành động can đảm chưa từng thấy trong chiến trận" của Trung Úy Quý nếu không hơn thì cũng chẵng kém những "Sao Bạc" ẩn nấp suốt đêm trong bệnh xá hầm y dược khác. Tiếc thay, người anh hùng Lương Văn Qúy trong trận Làng Vei đã anh dũng đền nợ nước chỉ mấy tháng sau đó tại một mặt trận khác.
Còn một quân nhân Việt Nam nữa là Trung Sĩ Tiếp cũng đã chiến đấu rất anh dũng. Trong lúc chiến xa địch đã xâm nhập và càn quét trong trại, anh vẫn can đảm xử dụng khẩu đại liên 50 đặt trên nóc phòng ngủ bắn vào chiến xa địch. Mặc dù không tiêu diệt được những xe bọc thép nhưng đạn đại liên cũng bắn hạ được nhiều bộ binh tùng thiết. Cuối cùng, khẩu đại liên này cũng bị đại bác trên chiến xa trực xạ phá hủy, lúc đó Trung Sĩ Tiếp mới rời bỏ vị trí. Ngoài ra, các sĩ quan Hoa Kỳ đều công nhận toán dân DSCĐ tuy chỉ được trang bị súng carbine lỗi thời, coi như "tay không" khi phải đối đầu với chiến xa, nhưng đã chứng tỏ lòng can đảm tuyệt vời. Những người tử thương đa số ngay tại vị trí chiến đấu vì bị chiến xa phá hủy. Một số còn leo lên cả chiến xa địch, cố mở nắp để ném lựu đạn vào nhưng rất tiếc không thành công.
Theo kế hoạch dự trù, TQLC tại Khe Sanh gồm Trung Đoàn 26 do Đại Tá David E. Lownds chỉ huy sẽ yểm trợ và tăng viện nếu Trại Làng Vei bị tấn công. Tuy là hai căn cứ do hai binh chủng khác nhau đồn trú, nhưng Làng Vei và Khe Sanh như răng với môi, trên lý thuyết có đủ lực lượng để tự phòng thủ và liên hoàn yểm trợ lẫn nhau trong trường hợp bị địch tấn công. Về yểm trợ, TQLC có pháo binh 105ly và 155 ly, ngoài ra còn một số chiến xa M-48 có máy nhắm hồng ngoại tuyến và hỏa lực trội hơn hẳn chiến xa T-54 và PT-76 của địch. Về tăng viện, TQLC dự trù sẽ xử dụng từ 2 Đại Đội đến 1 Tiểu Đoàn nếu Trại Làng Vei gặp nguy cơ bị địch tràn ngập.
Nhìn vào bản đồ, chúng ta thấy Trại Làng Vei và căn cứ Khe Sanh cách nhau chừng 10 cây số đường chim bay và khoảng trên 10 cây số đường bộ. Giữa căn cứ Khe Sanh và Trại Làng Vei là Làng Khe Sanh hay chi khu Hướng Hóa đã bị địch chiếm từ ngày 21 tháng Giêng. Cảm thấy nguy cơ đường về Khe Sanh bị cắt đứt sẽ gây khó khăn cho việc tiếp viện khi cần, Đại Úy Willoughby đã đề nghị dùng lực lượng tại Làng Vei với sự yểm trợ của TQLC để chiếm lại chi khu Hướng Hóa nhưng kế hoạch này bị TQLC từ chối vì không đủ quân số.
Khoảng 1 giờ sáng ngày 7 tháng 2, khi phát hiện chiến xa địch tấn công Làng Vei sau khi liên lạc được với không yểm, Trại Làng Vei đã lập yêu cầu pháo binh Khe Sanh bắn yểm trợ theo kế hoạch hỏa tập tiên liệu, nhưng Khe Sanh không tin địch quân có chiến xa nên hỏi đi hỏi lại nhiều lần, mãi tới 1 giờ 32 phút sáng, Khe Sanh mới bắt đầu tác xạ vào mục tiêu là điểm tiên liệu số 5 rồi rải đạn theo mặt Bắc của trại dọc theo đường số 9. Lúc đó nỗ lực chính của địch gồm một số chiến xa tấn công từ mặt Nam đã lọt được vào trong trại. Tới khoảng 2 giờ sáng, khi trại đã bị địch quân tràn ngập, Tướng Westmoreland chấp thuận xử dụng đạn pháo binh COFRAM còn gọi là Firecracker. COFRAM là chữ viết tắt của Combined Ordinance Fragmentary Antipersonnel Munition, một loại đạn pháo binh đặc biệt mới được chế tạo rất hữu hiệu để tiêu diệt bộ binh trên mặt đất, mỗi khi muốn xử dụng phải được sự chấp thuận của thượng cấp. Đạn COFRAM gần giống như đầu nổ "chụp" cao VT (Variable Time), bắn cầu vồng, phát nổ trên mục tiêu, nhưng đầu đạn VT chỉ gây thương vong bằng miểng. Ðạn COFRAM cũng nổ cao, nhưng lại tung ra hàng trăm trái tạc đạn nhỏ, liên tiếp nổ thêm một lần nữa như một tràng pháo (firecracker) ngang tầm đầu người văng miểng bao phủ một tầm sát hại rộng lớn, tương tự như bom CBU (Cluster Bomb Unit) thả bằng phi cơ. Pháo binh còn có loại đạn "tổ ong" (beehive hay flechettes) cũng dùng để chống biển người, khi bắn trực xạ khỏi nòng súng sẽ phát nổ, phóng ra nhiều mũi tên thép với tầm sát hại theo một hình nón 30 độ trước miệng súng. TQLC chỉ bắn được 3 tràng COFRAM, tới 2 giờ 30 sáng thì phải ngưng tác xạ vì mất liên lạc với trại Làng Vei. Nhìn chung, việc yểm trợ pháo binh từ Khe Sanh không được hữu hiệu như ý muốn.
Về việc tăng viện theo kế hoạch dự trù, khoảng sau nửa đêm, khi chiến xa địch đã nằm trên hầm chỉ huy, Đại Úy Willoughby đã yêu cầu pháo binh tại Khe Sanh bắn ngay trên vị trí của mình, đồng thời xin quân cứu viện theo kế hoạch định sẵn. Nhưng Khe Sanh trả lời sẽ không có quân cứu viện! Cấp chỉ huy TQLC viện cớ nếu gửi quân bằng đường bộ, chắc chắn sẽ bị phục kích, còn trực thăng không thể đáp xuống bãi đáp đã bị địch chiếm, mặc dù Tiểu Đoàn TQLC tăng viện rất muốn đi. Tin Trại Làng Vei bị bỏ rơi khiến các cấp chỉ huy LLĐB Hoa Kỳ tại Việt Nam rất tức giận. Đại Tá Jonathan F. Ladd, Chỉ Huy Trưởng Toán 5 LLĐB tại Việt Nam lập tức gọi điện thoại về Sài Gòn, đánh thức Đại Tướng Wesmoreland để trình bày tự sự. Tướng Westmoreland cho biết không thể can thiệp vào quyết định của cấp chỉ huy hiện hiện tại chỗ! Sau đó, Đại Tá Ladd lại kêu Tướng Westmoreland lần nữa nhưng lại trả lời trách nhiệm gửi quân tăng viện thuộc thẩm quyền của các cấp chỉ huy trực tiếp là Trung Tướng Robert E. Cushman Jr., Tư Lệnh Lực Lượng III TQLC, Thiếu Tướng Rathvon Tompkins, Tư Lệnh Sư đoàn 3 TQLC và Đại Tá Lownds, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 26 TQLC.
Sau này, Đại Tá Lownds bào chữa về quyết định của ông không gửi quân tới làng Vei như sau: “Tôi biết Trại Làng Vei sớm muộn gì cũng bị tấn công nên tôi thử cho một tiểu đoàn tiến từ Khe Sanh tới Làng Vei bằng đường bộ nhưng đi bằng đường rừng vì chắc chắn khi hữu sự, không thể dùng đường số 9 được. Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 26 do Trung Tá Jim Wilkinson chỉ huy đã phải đi mất 12 tiếng đồng hồ. Đêm đó nếu đi theo đường rừng sẽ không kịp. Giải pháp thứ nhì là dùng đường số 9 cũng không được vì sẽ bị phục kích “công đồn đả viện”. Giải pháp ba là dùng trực thăng nhưng lúc đó chiến xa địch đã chiếm giữ những bãi đáp. Vì vậy tôi không còn cách nào cứu họ, chỉ có thể gọi không yểm. Tôi còn nhớ ngay cả bộ binh của họ cũng chẳng gửi ai tới được. Cuối cùng, TQLC gửi tới mấy chiếc trực thăng để bốc ra những người sống sót, có lẽ đó là tất cả những gì làm được.”
Phân tách kỹ về phản ứng của TQLC trong trận Làng Vei, chúng ta thấy TQLC đã không làm tròn trách vụ yểm trợ như đã thỏa thuận. Về pháo binh, việc yểm trợ vừa chậm trễ lại kém hữu hiệu, không trợ giúp được gì nhiều. TQLC sau này viện cớ lúc đó bị pháo binh địch từ núi Cô Rốc pháo kích nhằm khóa súng và kho đan trọng pháo bị phát nổ, lại phải yểm trợ các vị trí TQLC khác nên không còn nhiều đạn. Nhưng viện lý do gì đi nữa, khi đã lãnh nhiệm vụ yểm trợ thì phải làm tròn. Việc gửi quân tăng viện lại càng tắc trách hơn. Tuy những lý do không đến tiếp cứu đều hợp lý, nhưng những khó khăn và nguy hiểm đáng lẽ phải tiên liệu và tìm cách giải quyết ngay từ đầu, trước khi hữu sự. Dĩ nhiên từ Khe Sanh tới Làng Vei chỉ có thể đi bằng đưòng rừng, đường số 9 hay bằng trực thăng, đường nào cũng không an toàn, nhưng phải chọn một đường ít nguy hiểm nhất. Cách hay nhất là giữ an ninh được trục lộ từ Làng Vei tới Khe Sanh để xử dụng khi hữu sự. Đại tá Lownds đã quyết định không tái chiếm và phòng thủ làng Khe Sanh tức chi khu Hướng Hóa, như vậy đã tự mình cắt đứt đường tiếp viện. Nếu viện cớ đêm tối, sợ địch phục kích nên không chuyển quân còn có thể tin được, nhưng tới ngày hôm sau TQLC vẫn án binh bất động, trong khi toán MAVC/SOG có thể dùng trực thăng tăng viện và một số binh sĩ vẫn có thể phản công từ Trại làng Vei cũ, thật khó hiểu nổi. Phân tách những lời giải thích của Đại Tá Lownds sau này, chúng ta có cảm tưởng TQLC không tận tâm cố cứu Trại Làng Vei chỉ vì họ là Bộ Binh không cùng binh chủng TQLC và hơn nữa Đại Tá Lownds chỉ nghĩ tới đơn vị của mình. Lo cho sự an toàn của thuộc cấp là điều nên làm, nhưng không làm tròn nhiệm vụ tiếp cứu đã được thỏa thuận là dấu hiệu của cấp chỉ huy thiếu khả năng và tắc trách. Sự hiềm khích, xung khắc giữa các quân binh chủng gây ra vấn đề “con đẻ, con nuôi” lúc nào cũng có, nhưng vì thế mà đem con bỏ chợ là điều đáng than phiền, nhất là Trại Làng Vei đã từng đứng mũi chịu sào, che chở căn cứ Khe Sanh như một tiền đồn.
Tưởng cũng nên nói, trong thời gian đó, Tướng Westmoreland đã có kế hoạch thành lập một Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn Bộ Binh tại Vùng I, đặt dưới quyền điều động của TQLC để đáp ứng với nhu cầu chiến trường ngày một gia tăng. Vì có sự lủng củng trong giới chỉ huy cao cấp của Bộ Binh và TQLC trong trận Lang Vei nên Tướng Wesmoreland hủy bỏ kế hoạch này. Về sau khi Sư Đoàn 101 Không Kỵ và Sư Đoàn Americal được gửi ra vùng I, các đơn vị này được đặt dưới quyền điều động của Quân Đoàn XXIV Bộ Binh Hoa Kỳ và TQLC không còn làm chúa tể nữa.
Viết lại trận đánh tại trại LLĐB Làng Vei, chúng tôi hy vọng làm sáng tỏ được một trong nhiều trang sử trong cuộc chiến Việt Nam, đồng thời nói lên được phần nào sự đóng góp và tinh thần phục vụ của các chiến binh Việt - Mỹ. Sách báo, tài liệu và dư luận Hoa Kỳ thường có khuynh hướng bất công và thiện vị đối với đồng minh Việt Nam. Trong trận Làng Vei, tất cả 24 quân nhân Hoa Kỳ tham chiến đều đã chiến đấu rất anh dũng. Nhưng nếu họ làm nên “Night Of Silver Stars” như được tuyên dương thì những quân nhân Việt Nam đã cứu sống những Silvers Stars này còn đáng ca ngợi hơn nhiều. Những “Sao Bạc” Hoa Kỳ so sánh với quân nhân Việt Nam, chỉ là “Sao Lạc”. Nghe nói sau trận Làng Vei, đa số những quân nhân Việt Nam tham dự đều đã hy sinh vì tổ quốc tại các trại LLĐB khác sau đó không lâu. Tuy không có “Silver Stars” như những bạn đồng trại Hoa Kỳ, nhưng đối với các bạn đồng đội QLVNCH, họ luôn luôn là những vì sao sáng chói trong tâm khảm, không những vì chiến công, mà còn vì những hy sinh, đóng góp âm thầm cho quê hương xứ sở.
Tổ Quốc Ghi Ơn.