(Austin Texas, mùa Thu 1998)
Email: camtran11@yahoo.com
Ngay ngày hôm sau 3 tháng 8, KTH Maddox tiếp tục công tác, dự trù 5 kéo dài ngày với sự tăng cường của
KTH Turney Joy
thuộc Hải Ðội KTH 19 lúc đó đang đảm trách nhiệm vụ tiền sát cho mẫu hạm Ticonderoga ngoài cửa vịnh Bắc Việt. Hai chiến hạm được lệnh không được tới gần bờ biển Bắc Việt dưới 11 hải lý thay vì 8 hải lý như trước. Khoảng cách với các hải đảo vẫn giữ nguyên 4 hải lý.
Theo nhận xét của Ðại Tá Herrick, thế nào Bắc Việt cũng phản ứng. Vì vậy, trong hai ngày 3 và 4 tháng 8, các chiến hạm Hoa Kỳ rất dè dặt, lúc nào cũng hải hành cách bờ không dưới 16 hải lý và cách các đảo chừng 10 hải lý, vì vậy không thu thập được nhiều tin tức tình báo hữu ích.
Về phần Trung Tá Robert C. Barnhart, Jr., Hạm Trưởng KHT Turney Joy, ông đã rất bất ngờ khi được chỉ định tham dự công tác. Trước đây, chiến hạm đảm trách nhiệm vụ tiền sát, tuần tiễu trong vùng giữa Hải Ðội Ticonderoga và Bắc Việt để báo động sớm những hành động thù nghịch như máy bay địch có thể bất thần tấn công mẫu hạm của hải đội. Do dó, Hạm Trưởng Barnhart, Jr. không hoàn toàn nắm vững tình hình địch trong vịnh Bắc Việt và chiến hạm cũng không có máy móc kiểm thính để biết trước những hoạt động của địch như KTH Maddox. Về mặt nhân sự, thủy thủ đoàn trên chiến hạm cũng thiếu hụt khá trầm trọng, nhưng nhìn chung, tinh thần vẫn khá cao.
Trong ngày 3 tháng 8, các
chiến hạm Hoa Kỳ hải hành
rất thận trọng trong khu vực ấn định và quan sát thấy có nhiều ghe đánh cá trong vùng tuần tiễu, nhưng không có biến cố quan trọng nào xảy ra.
Vì có các chiến đĩnh của LLHT cùng hoạt động trong vùng, hai KTH Hoa Kỳ được lệnh tuần tiễu xa hơn về phía Bắc, phía trên vĩ tuyến 19 độ 20 Bắc cho tới ngày 6 để tránh gây trở ngại hoặc ngộ nhật đối với các PTF. Phía với Bắc Việt la cho rằng đây là kế "dương đông kích tây", các chiến hạm Hoa Kỳ cố tình "cầm chân" lực lượng phòng duyên ở mặt Bắc để trợ giúp các PTF hoạt động xa hơn về phía Nam.
Trong suốt ngày 3 tháng 8, Bắc Việt không theo dõi được các hoạt động của các chiến hạm Hoa Kỳ. Tuy nhiên, chiếm hạm Maddox ghi nhận vào lúc 2030H, có một tiểu đĩnh di chuyển về hướng Ðông Nam dùng radar loại "skinhead" theo dõi. Tiểu đĩnh này sau đó mất hút về hướng đảo Hải Nam. Căn cứ vào các dữ kiện thâu thập được như vị trí, hướng đi, nơi đến, đây có thể là một tiểu đĩnh của Trung Cộng. Với liên hệ chặt chẽ giữa Trung Cộng và Việt Cộng lúc đó, rất có thể Trung Cộng đã thông báo cho Việt Cộng biết những hoạt động của chiến hạm Hoa Kỳ trong vịnh Bắc Việt.
Sau khi các PTF bắn phá đài radar Vinh Sơn và Cửa Ron vào đêm 3 rạng ngày 4 tháng 8, Bắc Việt la hoảng là đã bị pháo kích bằng hải pháo cỡ lớn vì tìm thấy mảnh đạn cỡ 125 ly. Các PTF xử dụng hải pháo cỡ 40 ly, súng cối 80 ly và đại bác không giật 57 ly, chỉ có các KTH Hoa Kỳ trang bị súng 127 ly. Trước đây, Bắc Việt cho rằng KTH Maddox không dính dáng tới vụ LLHT đánh phá vùng Hòn Mê vào đêm 30 rạng ngày 31 tháng 7, nhưng nay họ cho rằng lực lượng hải quân bắn phá Vinh Sơn và Cửa Ron gồm 4 PTF xuất phát từ Ðà Nẵng và cả 2 KTH Hoa Kỳ.
Hai KTH tiếp tục tuần tiễu dọc bờ biển Bắc Việt như ngày hôm trước, giữ khoảng cách trên 16 hải lý và thường trong nhiệm sở tác chiến. Vào khoảng 10 giờ sáng, một tiểu đĩnh gần bờ bắt đầu theo dõi 2 chiến hạm bằng radar "skinhead".
Radar phòng không dùng để phát hiện các phi cơ bạn cũng như địch. Hải Quân Hoa Kỳ dùng tiếng lóng "Bogey" để chỉ các phi cơ lạ rất có thể là phi cơ địch, không phải là "Friendlies" là những phi cơ đã được nhận dạng là phi cơ bạn. Radar hải hành phát hiện các đối vật và tầu bè trên mặt biển. Ðể phân biệt, hồi ba của các tầu bè bạn cũng được gọi là được gọi là "Friendly" còn tầu bè địch gọi là "Skunk". Radar hải pháo dùng để hướng dẫn các ụ súng tự động nhắm vào mục tiêu. Khi thời tiết xấu, các hồi ba giả xuất hiện trên màn ảnh khi tỏ khi mờ chỉ những chuyên viên có kinh nghiệm mới có thể phân biệt được. Ðối với radar hải pháo, vì phải liên tục theo dõi và dóng súng nên hồi ba cần phải được phân biệt rõ ràng để radar lúc nào cũng có thể nhìn thấy hầu "khóa" được mục tiêu. Bộ phận điều khiển radar hải pháo loại MK-5 trông như một cái bàn nhỏ (console) trong đó có một màn ảnh radar và bốn cần điều khiển ở bốn góc. Nhân viên phụ trách dùng cần điểu khiển điều chỉnh cho vòng tròn "hồng tâm" của máy nhắm nằm chồng lên hình của mục tiêu trên màn ảnh radar; kể từ lúc đó máy nhắm sẽ tự động theo dõi và dóng súng theo mọi di chuyển của mục tiêu.
Sau khi đổi hướng ra biển, cảm thấy không còn bị đe dọa, các KTH cho giải tán nhiệm sở tác chiến đã được ban hành liên tục trên 6 tiếng đồng hồ khi tuần tiễu gần bờ biển. Tuy nhiên, để đề phòng mọi bất trắc, các hạm trưởng đã bàn tính trước đội hình cũng như kế hoạch tác chiến khi hữu sự.
Về hải pháo, Maddock sẽ bắn đạn chiếu sáng để soi sáng mục tiêu, còn Turner Joy có súng bắn nhanh hơn sẽ bắn tiêu diệt. Nếu cả hai chiến hạm đồng loạt bị phi cơ và tiểu đĩnh tấn công, Maddox sẽ tập trung hỏa lực vào các mục tiêu trên biển, còn Turner Joy với súng bắn nhanh sẽ đảm nhận trách nhiệm phòng không. KTH Turney Joy tuy cũng có 3 ụ súng 127 ly, nhưng đây là những ụ súng đơn không giống Maddox gồm những ụ súng đôi. Như vậy, kể về hỏa lực hải pháo 127 ly, Maddox có 6 khẩu, Turney Joy chỉ có 3 khẩu trong khi, nhưng lại bắn nhanh hơn nhiều. Theo đúng thông lệ, các ụ súng 127 ly của Turney Joy cũng được đánh số 51 (đàng mũi) và 52, 53 sau lái. Ngoài ra, KTH Turner Joy cũng có 2 đài kiểm xạ: 51 trước mũi và 52 sau lái. Về tình trạng khiển dụng, ụ súng 51 bị hư hỏng hoàn toàn không xử dụng được nên phía trước chỉ có hải pháo 76 ly do đài kiểm xạ 51 điều khiển. Ðài kiểm xạ này cũng bị trục trặc vì radar hải pháo tuy khiển dụng nhưng không chính xác. Trong đêm 4 tháng 8, ụ súng 52 nạp đạn nổ mạnh và ụ 53 nạp đạn thời chỉnh nổ cách mục tiêu 50 feet để bắn phi cơ cũng như ngư lôi đĩnh.
Tới khoảng 8 giờ 30 tối, các KTH Hoa Kỳ tăng tốc độ từ 12 knots lên 20 knots. Ðồng thời HÐT Herrick thông báo
mẫu hạm Ticonderoga
ông đã nhận được nguồn tin các tiểu đĩnh BV sắp sửa tấn công nên đổi đường về hướng Ðông Nam với vận tốc tối đa để rời xa vùng bờ biển Bắc Việt.
Theo
nhật ký Trung Tâm Chiến Báo
(CIC - Combat Information Center) của KTH Maddox và báo cáo hậu hành quân của KTH Turney Joy, hồi 8 giờ 46 tối, radar của KTH Maddox phát hiện một tiểu đĩnh cách xa 36.4 miles, vận tốc 33 knots, hướng đi 170 độ (Nam Tây Nam). Tiểu đĩnh này được đặt tên là Skunk N (November - Skunk phát hiện đầu tiên trong ngày được đặt tên là Alpha, sau đó là Bravo v.v...). Sau đó, radar phát hiện thêm 2 tiểu đĩnh nữa. Hồi 8 giờ 48 tối, phát hiện Skunk O (Oscar) cách xa 34 miles, ở hướng 044 độ, vận tốc 28 knots. Hồi 8 giờ 50 tối phát hiện Skunk P (Papa) cách xa 36.6 miles ở hướng 060 độ, vận tốc 40 knots.
Chiến hạm Maddox vào nhiệm sở tác chiến lúc 8 giờ 58 tối. Hồi 9 giờ 04 tối, HÐT Herrick thông báo KTH Turner Joy vị trí của các "Skunks" và ra lệnh vào nhiệm sở tác chiến. Radar trên chiến hạm Tuner Joy tạm thời đổi qua tầm xa trong một thời gian ngắn để theo dõi và cũng
phát hiện các Skunks
này. Tiếp theo đó, chiến hạm Maddox còn phát hiện thêm các Skunks R (Roméo) và S (Sierra) nhưng sau khi theo dõi một thời gian mới biết là các hồi ba giả do thời tiết xấu gây ra.
Hồi 9 giờ 15 tối, radar phát hiện 3 phi cơ lạ (bogeys), hướng 287 độ, khoảng cách 28 hải lý. HÐT Herrick báo cho mẫu hạm Ticonderoga biết ông đang bị các tiểu đĩnh và phi cơ lạ theo dõi. Mẫu hạm Ticonderoga lập tức phản ứng bằng cách cho 6 phi cơ cất cánh gồm 2 chiếc loại Skyraiders, 2 F-8 Crudaders và 2 AD-4 Skyhawks để yểm trợ. Trong lúc này, vị trí của các Skunks N, O và P vẫn còn ở bắc và di chuyển về hướng Tây trong khi các chiến hạm Hoa Kỳ di chuyển hết tốc độ về hướng Nam nên khoảng cách đôi bên ngày càng xa. Tới khoảng 9 giờ 45, radar mất hồi ba của các Skunks.
Hồi 10 giờ 08 tối, radar trên chiến hạm Maddox phát hiện thêm một Skunk mới, đặt tên là U (Uniform) ở hướng 90 độ (3 giờ), khoảng cách 15 miles, đường đi 214 độ. Sau một thời gian theo dõi kỹ càng, cả 2 chiến hạm Maddox và Turner Joy đều phát giác đây không phải là một mà là một nhóm gồm 3 hay 4 tiểu đĩnh chạy rất gần nhau. Lúc này, các phi cơ của mẫu hạm Ticonderoga đã đến bao vùng. Trung Tá phi công James Stockđale nhìn thấy các lượn sóng sau chiến hạm Hoa Kỳ vào lúc 10 giờ 08 tối. Trong vòng một tiếng rưỡi đồng hồ, phi cơ của ông bay thấp dưới 1,000 feet và lúc nào cũng nhìn thấy rõ các KTH vì nước biển có nhiều lân tinh nên các lượng sóng sau chiến hạm rất sáng.
Hồi 10 giờ 17 tối, ngay sau khi phát hiện Skunk U, các chiến hạm hướng dẫn phi cơ tới để tìm kiếm. Tuy phi công không nhìn thấy bằng mằt thường, nhưng Skunk U vẫn hiện rõ trên màn ảnh radar của các chiến hạm. Tới khoảng 10 giờ 33 tối, Skunk U chỉ còn cách chừng 11.5 miles rồi đột nhiên biến mất.
Hồi 10 giờ 31 tối, hai chiến hạm phát hiện nhiều hồi ba mới ngay trước mũi, khoảng cách trên 30 hải lý nhưng khám phá ra đây chỉ là những hồi ba giả do thới tiết xấu.
Hồi 10 giờ 34 tối, radar trên KTH Maddox phát hiện thêm một hồi ba mới ở hướng 93 độ (3 giờ), khoảng cách 9,800 yards, vận tốc từ 35 đến 40 knots, đặt tên là Skunk V (Victor). Radar hải pháo lập tức khóa vào mục tiêu nhưng chỉ một lát sau chưa kịp bắn thì mục tiêu đã biến mất. Skunk V, sau khi hướng về KTH Maddox, hồi 10 giờ 37 tối, đột ngột quẹo trái khi còn cách chiến hạm 6,200 yards giống như khi vừa phóng xong ngư lôi. Giàn hải pháo 76 ly trên KTH Maddox lập tức khai hỏa.
Cùng lúc đó vào lúc 10 giờ tối, radar trên chiến hạm Turney Joy phát hiện một hồi ba khác ở hướng 86 độ (khoảng 3 giờ), khoảng cách 8,000 yards, đường đi 210 độ, đặt tên là Skunk V-1. Hồi 10 giờ 39 tối, ụ súng phía sau lái khai hỏa và nhưng bắn sau 2 phút vì radar hải pháo không còn phát hiện mục tiêu. Nhân viên phụ trách radar cho biết họ quan sát thấy 3 quả đạn 127 nổ ngay trên mục tiêu và sau đó Skunk V-1 biến mất trên màn ảnh.
Bên chiến hạm Maddox, ngay khi Skunk V quẹo gắt, chuyên viên Sonar báo cáo nghe thấy tiếng động của chân vịt khả nghi. HÐT Herrick cho rằng đây là tiếng chân vịt của ngư lôi do Skunk V vừa phóng ra ở hướng 051 độ nên cả hai chiến hạm cùng quẹo gắt qua phải để tránh. Ba thủy thủ trên chiến hạm Turner Joy xác nhận trông thấy sóng của ngư lôi lướt qua bên tả hạm từ sau lái đến trước mũi. Vi nhân viên radar trên chiến hạm Maddox phát hiện nhiều tiếng động khả nghi giống tiếng chân vịt của ngư lôi nên hai chiến hạm phải quẹo gắt nhiều lần để tránh. Theo báo cáo, KTH Maddox vận chuyển tránh ngư lôi tổng cộng 26 lần. Dần dần, vì có quá nhiều báo cáo về tiếng ngư lôi, Hạm Trưởng Ogier cho rằng đây chỉ là những tiếng động giả vì may ra chỉ có vài ba tiểu đĩnh Bắc Việt với vài quả ngư lôi, làm gì có nhiều tiếng ngư lôi như vậy. Do đó, ông không vận chuyển lẩn tránh nữa. Có điều khá lạ là trong khi Sonar của KTH Maddox phát hiện rất nhiều tiếng động ngư lôi thì Turner Joy lại không nghe thấy gì. Ngược lại, radar của Turner Joy phát hiện nhiều hồi ba trên mặt biển nhưng Maddox lại không thấy. Sau này Hạm Trưởng Ogier ước đoán có thể vì tần số cũng như sự khác biệt về đặc tính của máy móc điện tử trên hai chiến hạm nên các hồi ba giả hiện ra hay không.
Trong khi đó, các phi cơ được hướng dẫn đến các vị trí của Skunks do radar phát hiện nhưng vẫn không tìm thấy một tiểu đĩnh Bắc Việt nào. Các phi cơ không thám và bao vùng cũng không nhìn thấy đạn nổ trên mục tiêu.
Hồi 10 giờ 42 tối, HÐT Herrick báo cáo ông bắt đầu khai hỏa và hồi 10 giờ 52, các chiến hạm bị tấn công bằng ngư lôi. Tổng cộng, hai chiến hạn bắn chừng 300 quả đạn, đa số là đạn 127 từ KTH Turner Joy. Turner Joy cũng thả nhiều thủy lựu đạn (depth charge) điều chỉnh ở tầm nông để phá các ngư lôi.
Căn cứ vào các tin tức trái ngược, số Skunks và mục tiêu phát hiện và nhất là việc phi cơ không tìm thấy một tiểu đĩnh nào, HÐT Herrick là người đầu tiên nghi ngờ các chiến hạm Hoa Kỳ đã chỉ bắn vào các mục tiêu tưởng tượng. Khoảng 1 giờ 27 sáng, ông báo cáo rất có thể vì thời tiết xấu đã khiến cho các chiến hạm phát hiện nhiều mục tiêu cũng như ngư lôi giả.
Sáng ngày hôm sau, 5 tháng 8, hai KTH và nhiều phi cơ Hoa Kỳ trở lại vùng hoạt động đêm trước nhưng không tìm thấy vết dầu loang hay bất cứ dấu vết nào của tiểu đĩnh Bắc Việt bị bắn chìm. Sau này, khi cả ba ngư lôi đĩnh T-333, T-336 và T339 bị phi cơ Hoa Kỳ đánh chìm vào ngày 1 tháng 7 năm 1966, có 19 thủy thủ BV bị bắt sống. Các tù binh này đều khai rằng BV chỉ có 12 ngư lôi đĩnh do Nga viện trợ và không có chiếc nào tham chiến vào đêm 4 tháng 8. Trong báo cáo của tướng Việt Cộng Hoàng Văn Thái cũng cho biết trong đêm 4 tháng 8 khi các chiến hạm Hoa Kỳ bắn trái sáng và đạn nổ ngoài khơi vịnh Bắc Việt, phía Việt Cộng gửi công điện thượng khẩn hỏi các đồng chí Trung Cộng xem có phải họ đang đánh nhau với đế quốc Mỹ không. Phía Trung Cộng cũng gửi cho Việt Công một công điện tương tự. Cả đôi bên đều trả lời "không".
(Còn tiếp)
VI. Cuộc tuần tiễu DeSoto tiếp tục
Sau biến cố ngày 2 tháng 8, Ðại Tá Herrick tỏ ra rất do dự vì lo ngại rằng nếu còn tiếp tục hoạt động gần bờ, có thể Bắc Việt sẽ lại tấn công. Do đó, ông đề nghị hủy bỏ công tác nhưng thượng cấp không đồng ý. Ðô Ðốc Johnson cho rằng nếu làm như vậy có nghĩa là chiến hạm Hoa Kỳ đã Bắc Việt bị tống ra khỏi vùng dù hải hành trong hải phận quốc tế. Tuy nhiên trong công điện ngày 3 tháng 8 hồi 1712Z, ông cũng đồng ý rằng chỉ nên tiếp tục trong thời hạn ngắn với thêm chiến hạm tăng cường.
VII. Cuộc tấn công của các chiến đĩnh LLHT
Trong lúc đó, vào trưa ngày 3 tháng 8, các PTF 1, 2, 5 và 6 thuộc LLHT rời Ðà Nẵng với nhiệm vụ đánh phá các mục tiêu tại Mũi Vinh Sơn và Cửa Ron nằm về phía Bắc vùng phi quân sự chừng 70 hải lý, khoảng vĩ tuyến 18 Bắc. Trên đường công tác, PFT 2 vì bị trục trặc máy móc nên phải quay về Ðà Nẵng. Ba chiến đĩnh còn lại tiếp tục công tác. Tới khoảng 11 giờ đêm, các PTF 2 và 5 tới mục tiêu, bắn phá đài radar Vinh Sơn trong vòng 45 phút. PTF 6 còn lại hoạt động một mình, bắn phá đài quan sát và cầu tầu tại Cửa Ron. Theo báo cáo, một chiếc Swatow của Bắc Việt rời bến nghênh chiến nhưng vì vận tốc chậm hơn nên không theo kịp PTF 6.
VIII. Các KHT Hoa Kỳ được dùng làm mồi nhử?
Phía Bắc Việt cho rằng Hoa Kỳ đã dùng các KTH trong công tác DeSoto để cố ý khiêu khích cũng như tìm lý do chính đáng để gây hấn. Khi chiến tranh VN đã kết thúc, lúc gặp cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ McNamara, Võ Nguyên Giáp cũng vẫn giữ lập luận này. Một số chính khách Hoa Kỳ cũng tỏ ý nghi ngờ. Sau này, ngay thủy thủ đoàn KTH Maddox cũng cho rằng cấp chỉ huy muốn dùng họ làm "mồi", tìm cách cho chiến hạm bị hư hại nặng hoặc bắn chìm để Hoa Kỳ có cớ tấn công Bắc Việt. Bằng cớ là có một tầu dòng chuyên dùng để tiếp cứu các chiến hạm lâm nạn đã túc trực sẵn sàng ngoài khơi vịnh Bắc Việt.
IX. Vụ đụng độ lần thứ nhì vào ngày 4 tháng 8
Qua sáng ngày 4 tháng 8, các ghe đánh cá ngày hôm trước không còn nữa nhưng có một tầu dầu nhỏ xuất hiện gần Hòn Mê. Khi thấy bóng các chiến hạm Hoa Kỳ, chiếc tầu này vội lẩn trốn vào sau hải đảo.
1. Thời tiết
Tới chiều, 2 chiến hạm hướng ra ngoài biển khơi. Tin khí tượng cho biết thời tiết xấu, trời không trăng sao và rất tối với tầm nhìn xa chừng 300 thước, sóng 5-6 feet, gió chừng 17 knots. Theo kinh nghiệm, trong điều kiện thời tiết như vậy, nhiều hồi ba giả thường xuất hiện trên màn ảnh radar. Các hồi ba này lúc ẩn lúc hiện, khi rõ khi mờ hoặc đột nhiên biến mất.
2. Radar trên các chiến hạm Hoa Kỳ
Trên các KTH, thường có 3 loại radar: radar phòng không, radar hải hành hay kiểm thám trên biển và radar hải pháo.
3. Kế hoạch tác chiến
Theo kế hoạch, hai chiến hạm di chuyển theo đội hình hàng dọc với KTH Turney Joy có nhiệm vụ quan sát để hai chiến hạm không đụng nhau, giữ vị trí phía sau, cách KTH Maddox chừng 1,000 yards. Như vậy, radar hải hành của Turney Joy thường phải để ở tầm ngắn để ban đêm dễ dàng quan sát vị trí cả hai chiến hạm. KTH Maddox vì radar mạnh hơn nên được dùng để phát hiện các hồi ba tầm xa.
4. Bắc Việt tấn công?
Theo tài liệu của Hải Quân Hoa Kỳ, ngay từ lúc 5 giờ chiều, BTL/HQ Bắc Việt tại Hải Phòng đã gửi công điện cho Swatow T-142 để thông báo vị trí của các chiến hạm Hoa Kỳ lúc 1445H. Một công điện thứ nhì vào khoảng 2000H ra lệnh cho các tiểu đĩnh T-142, T-333 và có thể cả T-333 nếu được sửa chữa kịp thời, "sẵn sàng hành động" nhưng không xác định mục tiêu. Tuy Hoa Kỳ đoán rằng mục tiêu là các chiến hạm Hoa Kỳ, nhưng cũng rất có thể là các PTF của LLHT.